Cán bộ và công tác cán bộ có vai trò đặc biệt quan trọng trong giai đoạn Việt Nam đang đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bài viết khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ và tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ bảy khóa XII, qua đó đưa ra một số giải pháp góp phần thực hiện thành công những nhiệm vụ, mục tiêu mà Nghị quyết đã đề ra về công tác cán bộ đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, trong bối cảnh nước ta đang hội nhập sâu rộng với thế giới.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ
Cán bộ là cái gốc của mọi vấn đề, mọi công việc thành hay bại đều do cán bộ, do đó mỗi cán bộ đảm đương từng vị trí công tác phải biết phối hợp, giúp đỡ nhau thì từng đơn vị, tổ chức mới phát triển và thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Cán bộ là cái dây chuyền của nhà máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính sách của Chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được”1.
Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ thật đơn giản, dễ hiểu, nhưng cũng thật khúc triết mang tầm bao quát rộng lớn để mọi người dân, mọi đối tượng đều hiểu và nhận xét, đánh giá đúng vai trò của từng khâu, từng mắt xích của cán bộ trong bộ máy hành chính. Theo Người: “Nơi nào mà cán bộ cấp trên biết lựa chọn và dìu dắt, thì có nhiều cán bộ mới nảy nở và công việc rất phát triển. Trái lại, nơi nào cán bộ cấp trên không biết lựa chọn, dìu dắt, thì vẫn thiếu người mà công việc cứ luộm thuộm”2. Cán bộ lãnh đạo, quản lý ở mỗi cơ quan, đơn vị phải thực sự là người “đủ đức, đủ tài”, “chí công vô tư” trong việc giúp đỡ, dìu dắt cán bộ và nhất là cán bộ trẻ để ngày một tiến bộ kể cả về đạo đức, chuyên môn và hiệu quả công việc. Vì vậy, Người chỉ rõ: “Nơi nào có cán bộ tốt, thì cả vùng đó hoạt động như một bộ máy. Và cả vùng đó tỏ ra một bầu không khí hăng hái, vui vẻ”3.
Nói về tiêu chuẩn cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa bao giờ đòi hỏi ở mỗi cán bộ phải có bằng cấp này hay bằng cấp khác hoặc thành tích nổi trội, hay có học thức uyên bác mà Người chỉ ra bằng những từ rất dung dị, đời thường, ai cũng có thể thực hiện được, đó là: “Tự mình phải: Cần kiệm. Hòa mà không tư. Cả quyết sửa lỗi mình. Cẩn thận mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại (chịu khó). Hay nghiên cứu, xem xét. Vị công vong tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải làm. Giữ chủ nghĩa cho vững. Hy sinh. Ít tham muốn vì vật chất. Bí mật. Đối với người: với từng người thì phải khoan thứ. Với đoàn thể thì nghiêm. Có lòng bày vẽ cho người. Trực mà không táo bạo. Hay xem xét người. Làm việc phải: Xem xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán. Dũng cảm phục tùng đoàn thể”4. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về tiêu chuẩn cán bộ, chúng ta nhận thấy cán bộ dù ở cấp cao hay thấp, dù ở địa vị nào trong xã hội điều trước tiên là phải làm được những việc bình dị, đời thường ấy. Tuy nhiên, để làm được điều đó đòi hỏi ở mỗi người cán bộ phải không ngừng tự học tập, tự rèn luyện cả về đạo đức cách mạng và nhân cách sống. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Phải tỏ cho mọi người biết rằng công việc là công việc chung, thiếu người ra gánh vác thì mình ra, nếu có người thay, mình sẽ nghỉ để làm việc khác, sẵn sàng nhường lại cho ai muốn làm và làm được”5.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, để có cán bộ tốt, làm được việc phải chú trọng đến khâu đào tạo, huấn luyện một cách chu đáo, thiết thực. Người chỉ rõ: “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng. Đảng có mở những lớp huấn luyện cán bộ. Nhưng đại đa số cán bộ, hoặc bận công việc, hoặc xa xôi quá, chưa được huấn luyện. Đối với những cán bộ đó, Đảng cần phải tìm cách huấn luyện họ (hoặc mở lớp ở địa phương, hoặc gửi sách vở cho họ nghiên cứu.v.v)”6. Bởi vì, “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”7.
Bố trí, sử dụng cán bộ là khâu rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự thành, bại của công việc. Bởi vì, nếu phân công, bố trí cán bộ không đúng với năng lực, sở trường và lòng nhiệt huyết đối với công việc đó thì sẽ dẫn đến lãng phí nguồn cán bộ, thậm chí làm “thui chột” tài năng của họ. Người chỉ rõ: “Phải khéo dùng cán bộ. Không có ai cái gì cũng tốt, cái gì cũng hay. Vì vậy, chúng ta phải khéo dùng người, sửa chữa những khuyết điểm cho họ, giúp đỡ ưu điểm của họ. Thường chúng ta không biết tuỳ tài mà dùng người. Thí dụ: thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn dao. Thành thử hai người đều lúng túng. Nếu biết tùy tài mà dùng người, thì hai người đều thành công”, hoặc “phải phân phối cán bộ cho đúng. Thí dụ: Trong một nơi quan trọng ở một thành thị to thì phải phái những cán bộ có quan hệ khăng khít với quần chúng. Họ là người trong quần chúng mà ra, có sáng kiến, tinh thần, chắc chắn, chí khí vững vàng. Phải dùng người đúng chỗ, đúng việc”8.
Ảnh minh họa
2. Xây dựng đội ngũ cán bộ theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ bảy khóa XII
Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”. Có thể khẳng định, đây là một Nghị quyết đặc biệt quan trọng, mang tầm chiến lược dài hạn, giải quyết những vấn đề then chốt, cấp bách nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, cụ thể là:
Thứ nhất, đánh giá, nhìn thẳng vào thực trạng công tác cán bộ hiện nay. Nghị quyết số 26-NQ/TW nêu rõ: “Nhìn tổng thể, đội ngũ cán bộ đông, nhưng chưa mạnh; tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ xảy ra ở nhiều nơi; sự liên thông giữa các cấp, các ngành còn hạn chế. Tỉ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số chưa đạt mục tiêu đề ra. Thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế, yếu kém; nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc không đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế. Không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược, thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm”9.
Với sự đánh giá một cách khoa học cùng lý luận thực tiễn sâu sắc là tôn trọng sự thật, đánh giá đúng những hạn chế, yếu kém; qua đó đưa ra những quan điểm, nhận định và thực hiện theo quy luật khách quan của những vấn đề được nêu trong Nghị quyết số 26-NQ/TW. Đồng thời, xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ phù hợp với yêu cầu của đất nước trong giai đoạn hiện nay, nhất là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra, dự báo sẽ có nhiều thay đổi, sự ảnh hưởng mạnh mẽ tác động đến tình hình kinh tế – xã hội đất nước, nhằm chuẩn bị một cách tốt nhất về nguồn lực cán bộ, vững bước đi lên con đường chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Vì vậy, công tác cán bộ phải được đổi mới, có vai trò quyết định thực hiện thắng lợi mục tiêu đó.
Thứ hai, lần đầu tiên một Nghị quyết của Trung ương đề cập đến vấn đề “cán bộ cấp chiến lược”: Thuật ngữ này được hiểu là những cán bộ và bộ phận cán bộ ở đỉnh cao của tháp nhân sự của Đảng và Nhà nước ta, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hoạch định chính sách, đường lối đổi mới, cũng như trong công tác chỉ đạo, điều hành. Với yêu cầu, tiêu chí đối với những cán bộ này phải “đủ đức, đủ tài”, phải “vừa hồng, vừa chuyên” và ngang tầm nhiệm vụ. Mặt khác, xây dựng đội ngũ cán bộ này nhằm tạo sự đồng thuận thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng về quan điểm đổi mới, xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
Thứ ba, Nghị quyết số 26-NQ/TW đã đưa ra mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược có phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; đủ về số lượng, có chất lượng và cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ Tổ quốc”10. Trong đó, Nghị quyết nhấn mạnh cán bộ cấp chiến lược phải thực sự tiêu biểu về chính trị; phấn đấu trên 15% số cán bộ cấp chiến lược dưới 40 tuổi; từ 40 – 45% cán bộ đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Mặt khác, những cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tổng cục, cục, vụ, phòng và tương đương ở Trung ương: Phấn đấu từ 20 – 25% số người dưới 40 tuổi; từ 50 – 60% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý ở địa phương: Từ 15 – 20% dưới 40 tuổi đối với cấp tỉnh và 100% cán bộ chuyên trách cấp xã có trình độ cao đẳng, đại học và được chuẩn hoá về lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng công tác11.
Có thể thấy, Nghị quyết số 26-NQ/TW đã đề ra mục tiêu cụ thể cho các cấp, các ngành và các địa phương trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ phải chú ý đến độ tuổi và năng lực làm việc trong môi trường quốc tế, là thể hiện tầm nhìn mang tính chiến lược dài hạn, phù hợp với quy luật phát triển của đất nước nói riêng và thế giới nói chung.
Thứ tư, đề cập đến vấn đề cán bộ nữ. Nghị quyết số 26-NQ/TW đã đặt ra mục tiêu: “Phải có cán bộ nữ trong cơ cấu ban thường vụ cấp ủy và tổ chức đảng các cấp. Tỷ lệ nữ cấp uỷ viên các cấp đạt từ 20 – 25%; tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đạt trên 35%. Ở những địa bàn có đồng bào dân tộc thiểu số, phải có cán bộ lãnh đạo là người dân tộc thiểu số phù hợp với cơ cấu dân cư”12. Điều này thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện nghiêm Luật Bình đẳng giới, cũng như Công ước của Liên hợp quốc về các quyền chính trị của phụ nữ năm 1952 và Công ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ năm 1979, góp phần xây dựng một môi trường xã hội hài hòa, vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam.
Nghị quyết số 26-NQ/TW khẳng định xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong đó vai trò trực tiếp là của các cấp uỷ, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu và các cơ quan tham mưu về công tác cán bộ. Đồng thời, phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị, xã hội và toàn dân trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ.
Nhằm thực hiện, triển khai một cách nghiêm túc, hiệu quả những vấn đề đã nêu trong Nghị quyết số 26-NQ/TW về công tác cán bộ, ngày 25/02/2019 Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định số 179-QĐ/TW về chế độ kiểm tra, giám sát công tác cán bộ. Quy định này một lần nữa khẳng định năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, sự đoàn kết thống nhất, giữ gìn kỷ luật, kỷ cương của Đảng; đánh giá đúng về công tác cán bộ, kịp thời phát hiện, kiên quyết xử lý các vi phạm và dấu hiệu vi phạm của các tổ chức, cá nhân góp phần bảo đảm công tác cán bộ phải được thực hiện theo đúng quy định.
3. Một số giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ trong giai đoạn hiện nay
Để xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược một cách hiệu quả theo tư tưởng Hồ Chí Minh và tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/TW, cần thực hiện một số giải pháp cụ thể sau:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh: Triển khai bằng nhiều hình thức, phong trào phong phú sát với thực tế, “nói đi đôi với làm” phổ biến rộng rãi các chính sách của Đảng, Nhà nước, các nghị quyết, quy định mới ban hành tới mọi tầng lớp nhân dân để người dân nắm bắt, phản biện, kiểm tra, giám sát việc triển khai công tác cán bộ. Cần vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ một cách hiệu quả, thiết thực, phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế hiện nay. Đồng thời, cần nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu trong các cơ quan, đơn vị các cấp trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ; các cấp uỷ, tổ chức đảng và đảng viên cũng như quần chúng phải nhận thức một cách sâu sắc, triệt để về vai trò, vị trí và tầm quan trọng đối với chiến lược xây dựng đội ngũ cán bộ mà Nghị quyết số 26-NQ/TW đã đề ra.
Hai là, giáo dục, đào tạo kết hợp với quy hoạch, bố trí, sử dụng cán bộ: trong công tác cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là công việc lâu dài, liên tục của toàn Đảng, toàn dân, vì vậy phải có sự chuẩn bị một cách khoa học, hợp lý, không thể nóng vội, đốt cháy giai đoạn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”13, do đó để có những cán bộ đủ đức, đủ tài, việc đầu tiên và quan trọng chúng ta phải làm là định hình được mô hình giáo dục hoàn chỉnh từ cấp tiểu học trở lên để hình thành nhân cách con người Việt Nam có lòng yêu nước, tự hào dân tộc. Giáo dục phải giúp cho sự định hướng xã hội. Bởi vì, theo các nghiên cứu về con người thì từ bé cho đến khi 18 tuổi tiếp thu từ 70 đến 80% kiến thức của đời người, đó là những kiến thức có ý nghĩa nền tảng để sau này họ có thể tiếp thu được những kiến thức có tính quyết định đối với công việc. Cùng với đó, cần quản lý, giám sát chặt chẽ các trang thông tin điện tử, mạng xã hội, mang tính định hướng lành mạnh, giáo dục lý tưởng đối với trẻ em, học sinh, sinh viên trong bối cảnh của sự bùng nổ thông tin đa chiều; kết hợp việc giáo dục giữa gia đình, nhà trường và xã hội cần bài bản; chú trọng đến giáo lý truyền thống cũng như nhân cách con người, để trở thành “con người có văn hóa”.
Trong công tác quy hoạch, phải rà soát, thẩm định những điều kiện, tiêu chuẩn, trình độ, năng lực, uy tín, đạo đức, lý tưởng cách mạng. Để tránh tình trạng “thân quen”, “cánh hẩu” và loại ra “những con lươn, con chạch”…, phải triển khai tốt bước lấy ý kiến, đánh giá, nhận xét bằng phiếu kín để cho một tổ chức độc lập tổng hợp, đánh giá thì sẽ khách quan, trung thực lựa chọn đúng đối tượng vào trong quy hoạch kể cả từ cấp thấp đến cấp cao. Mặt khác, trong quy hoạch phải có tính “động” và “mở”, nghĩa là phải có kế hoạch, chiến lược cụ thể cho từng đơn vị, cơ quan, địa phương và cho mỗi ngành, lĩnh vực phù hợp với vị trí, chức năng đảm bảo sự ổn định và liên tục nhằm tránh tình trạng “quy hoạch treo” trong công tác cán bộ, gây lãng phí nguồn nhân lực.
Trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, việc bố trí, sắp xếp cán bộ có ý nghĩa rất quan trọng, đòi hỏi các cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị cần phải có trách nhiệm cao trong việc đánh giá, bố trí đúng cán bộ, phù hợp với năng lực, sở trường. Vì vậy, cần tuân theo một quy trình thống nhất giữa các khâu, từ phát hiện, tuyển chọn, đào tạo đến bố trí, sử dụng theo những tiêu chí cụ thể, rõ ràng đối với mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương.
Ba là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát công tác cán bộ: Phải làm thận trọng, cụ thể, khách quan từ khâu tiếp nhận, tuyển dụng cán bộ đến việc bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử và điều động, luân chuyển cán bộ. Đặc biệt, công tác kiểm tra, giám sát phải tiến hành theo nguyên tắc được quy định tại Quy định số 179-QĐ/TW, cụ thể là: “1) Kiểm tra, giám sát công tác cán bộ phải tuân thủ Điều lệ Đảng và các quy định của Đảng, bảo đảm sự thống nhất quy định của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác cán bộ và kiểm tra, giám sát công tác cán bộ; 2) Khi phát hiện tổ chức, cá nhân có vi phạm trong công tác cán bộ phải tiến hành kiểm tra, kết luận và xử lý nghiêm minh, chính xác, kịp thời; 3) Các cấp ủy, tổ chức đảng phải thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo, tự kiểm tra và tổ chức kiểm tra, giám sát công tác cán bộ theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao”.
Bốn là, “lửa thử vàng, gian nan thử sức”14: Để có những cán bộ lãnh đạo, quản lý “vừa hồng, vừa chuyên” cần phải được luân chuyển để đào tạo, rèn luyện qua thử thách, kinh qua nhiều công việc, trọng trách, môi trường làm việc khác nhau… giúp cho cán bộ tích lũy được kinh nghiệm, bộc lộ được năng lực, tài năng, sở trường của mình bằng những kết quả, sản phẩm cụ thể. Mặt khác, vượt qua được khó khăn, thử thách là thước đo quan trọng về ý chí cách mạng, đạo đức công vụ, năng lực quản lý… của mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ đến nay vẫn là những bài học sâu sắc, là kim chỉ nam cho mọi hành động trong công tác tổ chức cán bộ nhà nước. Kế thừa, phát huy những quan điểm, tư tưởng của Người, Nghị quyết số 26-NQ/TW đã thể hiện tư duy xây dựng đội ngũ cán bộ mang tầm nhìn, kế hoạch dài hạn, được tiến hành bài bản, khoa học, chặt chẽ, đặc biệt là những vấn đề trọng tâm như vị trí, vai trò quyết định của đội ngũ cán bộ trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ Nhà nước, cùng với nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân là “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội”15. Mặt khác, qua tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/TW và Quy định số 179-QĐ/TW nêu trên cho thấy sự thể hiện quyết tâm chính trị cao độ, sự chuẩn bị kỹ lưỡng về công tác nhân sự cho đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng./.
Lê Doãn Sơn
Theo Tạp chí Tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ
Đức Lâm (st)
Ghi chú:
1, 2, 3, 6, 7, 8. Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 5, Nxb. CTQG, H.2011, tr. 68, tr.166, tr.166-167, tr.309, tr.309, tr.314.
4. Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, Nxb. CTQG, H.2011, tr.280-281.
5. Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 4, Nxb. CTQG, H.2011, tr.51-52.
9, 10, 11, 12. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2018, tr.47, tr.57, tr.58-59, tr.60.
13. Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 11, Nxb. CTQG, H.2011, tr.528.
14. Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 12, Nxb. CTQG, H.2011, tr.180.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. CTQG, H.2016, tr.423-433.