TÀI LIỆU SINH HOẠT CHI ĐOÀN THÁNG 04

189

PHẦN 1

HỌC TẬP VÀ LÀM THEO LỜI BÁC

————

Tấm gương làm việc trách nhiệm

Trong công việc, mỗi người đều giữ một vị trí, vai trò nhất định ở cơ quan, đơn vị, tổ chức mà mình tham gia và là thành viên; do vậy, phải có trách nhiệm đối với cơ quan, đơn vị, tổ chức đó. Trách nhiệm chính là phần việc được giao, là điều phải làm, phải gánh vác hoặc nhận lấy về mình theo cương vị, chức trách. Nó được hình thành trên cơ sở những quy định của luật pháp, quy định, quy chế, thỏa thuận, điều lệ của tổ chức, đơn vị mà mình là thành viên.

Bên cạnh trách nhiệm với cơ quan, tổ chức, mỗi người đều là công dân của một quốc gia, dân tộc; do vậy, phải có trách nhiệm, nghĩa vụ đóng góp, xây dựng, phát triển quê hương, đất nước. Đối với người cán bộ, đảng viên, yêu cầu, đòi hỏi về tinh thần trách nhiệm, bổn phận, nghĩa vụ còn cao hơn nhiều. Cùng với trách nhiệm, nghĩa vụ với tư cách là công dân, người cán bộ, đảng viên còn phải tiên phong, gương mẫu đi đầu về tinh thần, thái độ, trách nhiệm với công việc, trong rèn luyện và thực hành đạo đức, lối sống, nêu gương, cũng như tuân thủ nghiêm Điều lệ Đảng, quy định về những điều đảng viên không được làm,…

Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc, vị lãnh tụ thiên tài, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta – là một mẫu mực về tinh thần làm việc trách nhiệm, hết lòng, hết sức cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Người định nghĩa về tinh thần trách nhiệm bằng những từ ngữ rất giản dị, dễ hiểu: “Tinh thần trách nhiệm là: nắm vững chính sách, đi đúng đường lối quần chúng, làm tròn nhiệm vụ(1), là “khi Đảng, Chính phủ, hoặc cấp trên giao cho ta việc gì, bất kỳ to hay nhỏ, khó hay dễ, ta cũng đưa cả tinh thần, lực lượng ra làm cho đến nơi đến chốn, vượt mọi khó khăn, làm cho thành công. Làm một cách cẩu thả, làm cho có chuyện, dễ làm khó bỏ, đánh trống bỏ dùi, gặp sao làm vậy, v.v., là không có tinh thần trách nhiệm”(2). Người yêu cầu, nhắc nhở, bất kỳ ai, dù ở địa vị nào, làm công tác gì, gặp hoàn cảnh nào, đều phải có tinh thần trách nhiệm; “đã phụ trách việc gì, thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó nhọc, không sợ nguy hiểm”(3).

Nhận thức sâu sắc trách nhiệm, bổn phận của mình trước dân tộc, nhân dân và trước Đảng, trong suốt quá trình hoạt động cách mạng sôi nổi, đầy cam go, thử thách, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Người đã tự mình đi khắp năm châu, bốn biển khảo sát, nghiên cứu, lao động, học tập để tìm đường cứu nước, cứu dân, giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến. Mục đích của Người là tranh đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và vì hạnh phúc của nhân dân. Người chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Và cũng chính bởi mục đích, ham muốn tột bậc này, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phải trải qua rất nhiều khó khăn, gian khổ, có lúc bị hiểu lầm hoặc phải “ẩn nấp nơi núi non, ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo”.

Ngay sau khi nước nhà giành được độc lập, từ thực tiễn đội ngũ cán bộ, đảng viên; đồng thời, dự báo được chiều hướng phát triển của tình hình, Người rất chú ý đến việc giáo dục ý thức, tinh thần trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong nhiều bài viết gửi các cấp chính quyền, Người yêu cầu xây dựng các cơ quan từ Chính phủ cho đến các làng, xã phải là “công bộc” của dân, Chính phủ phục vụ nhân dân, việc gì có lợi cho dân thì phải hết sức làm, việc gì có hại đến dân thì phải hết sức tránh; phải đặt quyền lợi của nhân dân lên trên hết, phải chú ý giải quyết các vấn đề liên quan đến đời sống của nhân dân; đồng thời, nghiêm khắc phê phán, lên án những căn bệnh, như cậy thế, tư túng, óc bè phái, kiêu ngạo,… đang ngự trị trong đầu óc của không ít cán bộ, đảng viên lúc bấy giờ.

Khát vọng cháy bỏng về một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh, nhân dân được ấm no, hạnh phúc đã thôi thúc, trở thành động lực để Chủ tịch Hồ Chí Minh dấn thân, hành động, làm việc một cách tự giác, tự nhiên, không vì danh lợi, thành tích hay sự ca ngợi nào. Được cống hiến, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân đối với Người là nguồn vui, niềm hạnh phúc vô bờ bến. Tinh thần trách nhiệm đó xuất phát từ lòng yêu nước sâu sắc, tâm trong sáng, tình thương yêu con người vô hạn. Trong Di chúc, Người viết: “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”(4).

Trong công việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt lợi ích của đất nước, của nhân dân, của Đảng lên trên hết, gương mẫu trong mọi việc. Phương châm xử lý, giải quyết công việc của Người là “chí công vô tư”, “dĩ công vi thượng”, không để cảm xúc, tình cảm cá nhân xen vào công việc. Muốn thực hiện được được điều này, theo Người, phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, vì chủ nghĩa cá nhân là nguyên nhân của mọi thói hư tật xấu, làm cho con người không giữ được mình, không vì lợi ích chung để giải quyết công việc, kém tinh thần trách nhiệm, chỉ nghĩ đến lợi ích của cá nhân, của gia đình, phe nhóm mình. Chủ nghĩa cá nhân là kẻ địch hung ác của đạo đức cách mạng. Muốn đánh thắng chủ nghĩa đế quốc, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, trước hết phải chiến đấu và chiến thắng kẻ thù bên trong của mỗi con người là chủ nghĩa cá nhân.

Tấm gương, tinh thần làm việc trách nhiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện ở việc thống nhất giữa lời nói và việc làm. Đó là nói gắn liền với làm, không nói nhiều làm ít, nói mà không làm, làm không như nói. Đây là một đặc điểm nổi bật trong phẩm chất con người Hồ Chí Minh. Quần chúng nhân dân, cán bộ, đảng viên nhìn thấy ở Người phẩm chất, phong cách của một lãnh tụ hành động, một tấm gương có sức cảm hóa, thuyết phục đối với tất cả mọi người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm đúng như những gì Người nói: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” và chính Người đã trở thành một tấm gương sống mẫu mực, sáng ngời về đạo đức, nhân cách, tài năng, kết tinh những giá trị, phẩm chất tốt đẹp nhất, tiêu biểu cho phẩm giá, lương tâm, trí tuệ của con người Việt Nam.

Tấm gương làm việc khoa học, đổi mới

Cùng với việc nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công việc, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân và đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn làm việc hết sức khoa học, luôn tìm tòi, đổi mới để đạt hiệu quả và chất lượng cao nhất. Điều này được thể hiện ở những điểm sau:

Làm việc gì cũng luôn đi sâu đi sát, nghiên cứu, điều tra, khảo sát kỹ lưỡng

Trước khi đưa ra bất kỳ một quyết định, giải pháp nào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều dựa trên cơ sở khoa học, thực tiễn chắc chắn, có độ tin cậy cao. Người không quyết định theo cảm tính, chủ quan, mà nghe nhiều bên, có phân tích, xem xét, đánh giá một cách khách quan rồi mới đưa ra quyết định cuối cùng. Người nói: “So đi sánh lại, phân tích rõ ràng là cách làm việc có khoa học(5). Phong cách làm việc khoa học đòi hỏi “gặp mỗi vấn đề, ta phải đặt câu hỏi: Vì sao có vấn đề này? Xử trí như thế này, kết quả sẽ ra sao? Phải suy tính kỹ lưỡng. Chớ hấp tấp, chớ làm bừa, chớ làm liều. Chớ gặp sao làm vậy”(6). Cách làm khoa học này là cơ sở cho việc lãnh đạo đúng, trúng, sát hợp thực tế, tình hình.

Trước những vấn đề mới, khó, phức tạp, bên cạnh việc tham vấn bộ máy, đội ngũ trợ lý, giúp việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn trực tiếp đi nghiên cứu, khảo sát, tiếp xúc với cơ sở, địa phương để tìm hiểu thực tế, nắm bắt tình hình, thu thập thông tin cụ thể. Người chỉ rõ, muốn lãnh đạo đúng, trước hết phải quyết định mọi vấn đề cho đúng. Muốn quyết định cho đúng, trước tiên phải điều tra, nghiên cứu rõ ràng. Người yêu cầu cán bộ, đảng viên khi xử lý và giải quyết công việc cần phải tôn trọng hiện thực khách quan, không “tô hồng”, bóp méo sự thật, phải có tầm nhìn xa rộng, tránh rơi vào những việc sự vụ, thiển cận. Theo Người, khi ra quyết định công tác, xác định cách tổ chức, cách làm việc thì phải luôn căn cứ vào tình hình thực tế, xem xét mọi mặt. Người phê phán gay gắt những cán bộ mắc bệnh quan liêu, hình thức, ngồi bàn giấy chỉ nghe người ta báo cáo rồi ra quyết định, mà không nắm rõ tình hình thực tế,…

Làm việc có chương trình, kế hoạch

Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc theo chương trình, kế hoạch công tác cụ thể, chi tiết hằng năm, quý, tháng, tuần, từ dài hạn, trung hạn, đến ngắn hạn. Theo Người, chương trình, kế hoạch làm việc cần khoa học, cụ thể, chi tiết, không nên tham lam, thiết thực, vừa sức, “chớ làm kế hoạch đẹp mặt, to tát, kể hàng triệu nhưng không thực hiện được”(7).

Người yêu cầu, cần đặt kế hoạch cho sát hợp. Kế hoạch đặt ra để mình và mọi người thực hiện chứ không phải để chiêm ngưỡng, tránh tình trạng “đánh trống bỏ dùi”. Người chỉ ra khuyết điểm của cán bộ, đảng viên, nhất là của người lãnh đạo là: “Chương trình công tác thì quá rộng rãi mà kém thiết thực. Đặt ra kế hoạch và chương trình không xét rõ năng lực của những người thi hành kế hoạch và chương trình đó. Thành thử việc gì cũng muốn làm mà việc gì làm cũng không triệt để”(8). Cùng với đó, cán bộ, đảng viên thường mắc phải khuyết điểm là đầu tư nhiều công sức vào việc vạch ra chương trình, kế hoạch, nhưng lại ít tìm cách để thực hiện cho được kế hoạch, chương trình đã đề ra. Hơn nữa, chương trình, kế hoạch này thực hiện chưa xong, chưa biết kết quả thực hiện ra sao đã nghĩ đến chương trình, kế hoạch khác; hoặc xây dựng chương trình, kế hoạch làm việc, nhưng cách sắp đặt công việc không khéo, ôm đồm làm nhiều việc cùng một lúc, hoặc làm không đúng, lại thiếu những biện pháp thích hợp, thiếu quyết tâm, nên chương trình, kế hoạch đặt ra đều không thực hiện được. Do vậy, Người nhắc nhở: “Kế hoạch một phần, biện pháp phải hai phần, và quyết tâm phải ba phần, có như thế mới có thể hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch”(9).

Làm việc gắn với kiểm tra, tổng kết, rút kinh nghiệm

Thực hiện quan điểm của V.I.Lê-nin: Lãnh đạo không kiểm tra thì coi như không lãnh đạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú ý đến công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chủ trương, đường lối, chỉ thị, nghị quyết, chính sách của Đảng và của Nhà nước. Mục đích của kiểm tra là để xem các cấp thực hiện có đúng đường lối, chính sách không, để nắm được chất lượng, tiến độ công việc, tuân thủ quy trình, các bước tiến hành triển khai công việc,… Người chỉ ra một thực trạng: “Hiện nay, nhiều nơi cán bộ lãnh đạo chỉ lo khai hội và thảo nghị quyết, đánh điện và gửi chỉ thị, sau đó, thì họ không biết gì đến những nghị quyết đó đã thực hành đến đâu, có những sự khó khăn trở ngại gì, dân chúng có ra sức tham gia hay không. Họ quên mất kiểm tra. Đó là một sai lầm rất to. Vì thế mà “đầy túi quần thông cáo, đầy túi áo chỉ thị” mà công việc vẫn không chạy”(10).

Chủ tịch Hồ Chí Minh còn rất quan tâm đến việc tổng kết, rút kinh nghiệm. Theo Người, mỗi khi làm xong một việc gì, dù thành công hay thất bại, đều cần tổng kết thực tiễn để rút kinh nghiệm những việc làm được, hoặc còn chưa làm được, phát hiện những khó khăn, vướng mắc làm cơ sở cho việc bổ sung, phát triển lý luận, đề ra chủ trương, biện pháp một cách sát hợp với điều kiện, tình hình thực tiễn. Trong thực tế quá trình lãnh đạo, Người thường xuyên kiểm tra, kiểm soát từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên để có cái nhìn đúng đắn, khách quan về hoạt động của cán bộ, đảng viên, cũng như của các cơ quan, tổ chức thực hiện nhiệm vụ.

Làm việc phải cụ thể, kịp thời, thiết thực, có trọng điểm và nắm điển hình

Người yêu cầu người cán bộ phải chân đi, mắt thấy, tai nghe, miệng nói, tay làm, óc nghĩ; phải lãnh đạo toàn diện và cụ thể, phải cẩn thận mà nhanh nhẹn, kịp thời, làm đến nơi đến chốn. Hồ Chí Minh phê phán căn bệnh “hữu danh vô thực” ở không ít cán bộ, đảng viên: “Làm việc không thiết thực, không từ chỗ gốc, chỗ chính, không từ dưới làm lên. Làm cho có chuyện, làm lấy rồi. Làm được ít, suýt ra nhiều, để làm một bản báo cáo cho oai, nhưng xét kỹ lại thì rỗng tuếch… Thế là không làm tròn nhiệm vụ của mình. Thế là dối trá với Đảng, có tội với Đảng. Làm việc không thiết thực, báo cáo không thật thà, cũng là một bệnh rất nguy hiểm”(11).

Luôn đổi mới, sáng tạo trong công việc

Người luôn suy nghĩ, tìm tòi, đổi mới trong công việc, không cứng nhắc, bảo thủ, đóng khung, cố chấp, mà rất linh hoạt, mềm dẻo khi xử lý, giải quyết từng vấn đề, sự việc cụ thể. Một ví dụ để minh chứng cho nhận định trên: Khi dự thảo công văn cho Bác, anh em giúp việc thường dựa vào các văn bản cũ đã được Người duyệt để làm theo. Không ngờ, có lần Người lại sửa khác đi. Anh em giúp việc có ý thanh minh: Thưa Bác, cháu thấy trong văn bản trước Bác đã thông qua một câu như vậy rồi ạ. Người nói, lần trước Bác chưa nghĩ ra, lần này Bác thấy phải sửa tiếp cho tốt hơn(12). Có thể thấy, phong cách làm việc của Người là luôn đổi mới, sáng tạo, không cứng nhắc, không chấp nhận tư duy lối mòn, kinh nghiệm chủ quan, mà hướng tới sự mới mẻ, hiệu quả để ngày càng đạt kết quả tốt hơn.

Học tập tấm gương làm việc trách nhiệm, khoa học, đổi mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Một là, mỗi cán bộ, đảng viên cần nâng cao ý thức, tinh thần trách nhiệm với công việc. Học và làm theo Bác không phải là bằng những điều cao siêu, to lớn, mà cần bắt đầu từ những lời nói, việc làm, bằng thái độ, cách ứng xử trong xử lý và giải quyết công việc hằng ngày. Đó là sự tự ý thức về trách nhiệm của mình trong công việc chung, là việc cố gắng, nỗ lực hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ ở cương vị công tác. Mỗi người cần thấm nhuần, khắc sâu lời Bác dạy: Cán bộ, đảng viên “là người đày tớ trung thành và tận tụy của nhân dân”; “phục vụ nhân dân là phục tùng chân lý”; “làm công bộc cho dân là một việc làm cao thượng”.

Học tập ý thức, tinh thần trách nhiệm phục vụ nhân dân của Bác cần xuất phát từ tinh thần tự giác, sự thôi thúc của con tim, từ danh dự và lương tâm của chính bản thân mỗi người. Làm việc với một niềm hăng say, phấn khởi, tin tưởng, hạnh phúc, với mong muốn được cống hiến, đóng góp một phần nhỏ bé vào sự phát triển của cơ quan, đơn vị, tổ chức mà mình là thành viên, rộng hơn là của xã hội, đất nước, chứ không phải vì danh lợi, chạy theo thành tích. Cần nhận thức rõ rằng, trở thành một cán bộ, công chức, một đảng viên là niềm vinh dự, tự hào, nhưng cũng là trách nhiệm, nghĩa vụ to lớn. Vinh dự, trách nhiệm đó đòi hỏi mỗi người cần cố gắng, phấn đấu, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng, năng lực chuyên môn để hoàn thành tốt nhiệm vụ được tổ chức phân công, giao phó.

Học tập tinh thần trách nhiệm của Bác còn là việc phải luôn đau đáu, trăn trở với những tâm tư, suy nghĩ, mong mỏi của người dân và xã hội, muốn đóng góp sức lực nhỏ bé của mình vào việc xây dựng một xã hội tiến bộ, tốt đẹp hơn; nói đi đôi với làm, lý luận liên hệ với thực tiễn; biết thông cảm, thấu cảm, biết đau trước những khó khăn, mất mát của người dân; biết vui mừng, sẻ chia trước hạnh phúc, niềm vui của nhân dân. Thấu hiểu và cảm thông với nhân dân, xuất phát từ lợi ích của nhân dân sẽ giúp mỗi cán bộ, đảng viên luôn tìm tòi, suy nghĩ để giải quyết công việc vừa ích nước, vừa lợi dân.

Hai là, trong xử lý và giải quyết công việc cần khắc ghi sâu sắc nguyên tắc lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, của Đảng là tối thượng, bất khả xâm phạm, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Người cán bộ, đảng viên trước bất cứ công việc gì, dù ở cương vị, hoàn cảnh nào cũng phải luôn đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, của Đảng lên trước. Lợi ích của cá nhân, của bộ phận, của giai cấp phải phục tùng và không được làm tổn hại đến lợi ích dân tộc; đồng thời, linh hoạt, mềm dẻo, “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong thực hiện nguyên tắc này. Vì vậy, trong quá trình hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải quyết một cách đúng đắn, sáng tạo yêu cầu, đòi hỏi, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam; đoàn kết, tập hợp được sức mạnh của cả dân tộc làm nên thắng lợi vĩ đại trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.

Để luôn đứng vững trên lập trường dân tộc, lấy quyền lợi của Tổ quốc và nhân dân làm tối thượng, cần chống chủ nghĩa cá nhân, lợi ích nhóm, tư tưởng cục bộ, óc bè phái, kéo bè kéo cánh, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ ra. Chủ nghĩa cá nhân “là một thứ vi trùng rất độc, một thứ rất gian giảo, xảo quyệt”. Do chủ nghĩa cá nhân mà ngại khó khăn, gian khổ, tham danh, trục lợi, thích địa vị, quyền hành, xa rời quần chúng, mất đoàn kết, kém tinh thần trách nhiệm,… Nó là nguyên nhân của mọi thói hư tật xấu, của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Do vậy, phải “kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân” – kẻ thù bên trong của mỗi chúng ta.

Ba là, học tập và làm theo Bác, mỗi cán bộ, đảng viên cần không ngừng rèn luyện về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, chuyên môn, nghiệp vụ. Trong một xã hội vận động và biến đổi nhanh chóng, đất nước hội nhập sâu rộng với thế giới đã và đang đặt ra yêu cầu, đòi hỏi rất cao về năng lực, chuyên môn, phẩm chất, đạo đức, bản lĩnh chính trị đối với mỗi người cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Do vậy, để tránh tụt hậu, đáp ứng được yêu cầu của công việc, tiến tới có đủ năng lực làm việc được trong môi trường quốc tế, không có cách nào khác, mỗi người cần có tinh thần cầu thị, không ngừng cố gắng, nỗ lực học tập, rèn luyện để tự hoàn thiện bản thân, ngày càng tiến bộ.

Mỗi cán bộ, đảng viên phải coi việc tự học tập, rèn luyện là nhiệm vụ tự thân, là chế độ, quy định bắt buộc. Học tập là con đường duy nhất để tiến bộ và phát triển. Học tập phải được coi là nghĩa vụ, là khát vọng, niềm say mê, nguồn vui để làm việc và làm người cán bộ, đảng viên tốt. Không học tập và rèn luyện sẽ bị tụt hậu, đào thải, không đáp ứng được yêu cầu về phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn. Do vậy, cần xác định học tập là công việc suốt đời, “còn sống là còn phải học”. Có nhiều cách học: học ở trường lớp, học đồng nghiệp, học trong sách vở, tự học. Nói tóm lại, phải thấm nhuần lời dạy của V.I.Lê-nin được Hồ Chí Minh nhắc đi nhắc lại nhiều lần: “Học, học nữa, học mãi”!./.

——————————

(1), (2)  Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.7, tr. 249, 248

(3) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t.6, tr. 131

(4) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t.15, tr. 623

(5), (6), (7), (8), (10), (11) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 5, tr. 337, 279, 81, 636 – 637, 297

(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr. 25

(12) Ban Tuyên giáo Trung ương: Những nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 105

Cổng thông tin điện tử Tạp chí Cộng sản

PHẦN 2

KỶ NIỆM NGÀY GIẢI PHÓNG KHÁNH HÒA

(02/4/1975 – 02/4/2020)

———-

Quyết chiến trên đèo Phượng Hoàng

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã lùi xa 45 năm, song những ký ức một đời binh lửa chẳng thể nào mờ phai trong tâm trí Đại tá Nguyễn Quang Lâm (86 tuổi), nguyên Phó Chính ủy Trung đoàn 24, Sư đoàn 10 Anh hùng. Theo cách mạng đi đánh giặc từ khi còn mười tám đôi mươi, trải qua bao trận đánh ác liệt, cùng đồng chí đồng đội lập nên bao chiến công oanh liệt, nhưng trong câu chuyện với chúng tôi hôm nay, người lính già lại nhắc nhiều đến 2 trận đánh then chốt quyết định. Đó là trận đánh chiếm Sở chỉ huy Sư đoàn 23 ngụy, giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột và trận tiêu diệt lữ đoàn dù trên đèo Phượng Hoàng, tiến xuống giải phóng Nha Trang – Khánh Hòa.

Kỷ niệm 45 năm ngày giải phóng tỉnh Khánh Hòa (2-4-1975 – 2-4-2020)

Sau khi cùng các lực lượng giải phóng Buôn Ma Thuột và đập tan âm mưu tái chiếm Buôn Ma Thuột của địch, Sư đoàn 10 được lệnh truy kích địch trên đường 21, đánh chiếm căn cứ Chư Cúc, tiến xuống đánh chiếm quận lỵ Khánh Dương. Nhưng khi quân ta tiến xuống đến gần đèo Phượng Hoàng thì phải dừng lại vì địch đã bố trí lực lượng mạnh, lập tuyến phòng thủ. Đặc biệt, địch đã đổ xuống 1 lữ đoàn dù khoảng 4.000 lính, với sự chi viện tối đa của pháo binh và không quân hòng lập cánh cửa thép ngăn chặn ta tiến xuống đồng bằng duyên hải. Trước tình hình đó, Tư lệnh chiến dịch và chỉ huy Sư đoàn 10 đã họp bàn lập phương án, hạ quyết tâm tiêu diệt cho được lữ dù 3 để mở thông cánh cổng đèo Phượng Hoàng. Sư đoàn 10 sử dụng lực lượng Trung đoàn 28, Trung đoàn 66 thay nhau đột phá hướng chính diện theo Quốc lộ 21. Trung đoàn 25 xuyên rừng vòng qua phía bắc đánh vào mạn sườn phòng tuyến của địch. Trung đoàn 24 cắt rừng vòng qua phía nam làm nhiệm vụ khóa đuôi địch khi chúng rút chạy và chặn đánh quân chi viện từ Lam Sơn, Dục Mỹ lên. “Trong ngày 26-3, nhận được tin vui Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Quân đoàn 3, càng cổ vũ, tăng thêm sức mạnh chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ. Ngay trong đêm đó, trên tất cả các hướng, bộ đội ta đã áp sát mục tiêu và đồng loạt đánh chiếm các ụ súng, chiến hào và các cụm xe tăng của lữ dù 3. Đến chiều 1-4, trận đánh kết thúc hoàn toàn thắng lợi, ta mở toang cánh cổng thép trên đèo Phượng Hoàng để tiến xuống đánh chiếm các cứ điểm của địch ở Lam Sơn, Dục Mỹ. Sáng 2-4, các mũi tiến thẳng vào huyện lỵ Ninh Hòa, phối hợp với lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương treo cờ giải phóng làm chủ hoàn toàn Ninh Hòa. Sau đó, thần tốc tiến vào giải phóng Nha Trang ngay trong chiều 2-4”, Đại tá Lâm nhớ lại.

Bừng bừng khí thế

Tại Ninh Hòa, từ sáng 1-4, các mũi gồm lực lượng vũ trang và đội vũ trang công tác từ nhiều hướng đã đồng loạt huy động quần chúng nổi dậy giải phóng đại bộ phận vùng nông thôn. Đến hết ngày 1-4 đã áp sát thị trấn Ninh Hòa. Tại Vạn Ninh, tối 31-3, bọn địch đã rút chạy ra đảo. Trong 2 ngày 1 và 2-4, toàn bộ vùng nông thôn và thị trấn Vạn Giã được giải phóng.

Tại Nha Trang, ngay khi tuyến phòng thủ của địch trên đèo Phượng Hoàng bị phá vỡ, đã rơi vào tình trạng hỗn loạn. Ngày 1-4, Nha Trang không còn chính quyền Sài Gòn vì công chức và sĩ quan bất chấp lệnh giới nghiêm của chỉ huy, đã tự động tháo chạy.

Ông Nguyễn Xuân Minh, nguyên Chánh văn phòng Liên huyện, thị Vĩnh Trang nhớ lại: “Sau khi nhận được thông tin địch rút chạy, tôi đã nhanh chóng về Nha Trang tổ chức tiếp quản lực lượng tù chính trị phá ngục, tổ chức đưa về cơ sở, kể cả những người ở trong Ninh Thuận. Từ ngày 2-4, tiếp tục chỉ đạo huy động lực lượng cơ sở nội thành, các đội công tác, bộ đội địa phương phối hợp với quân chủ lực Sư đoàn 10 để ổn định tình hình, tập trung giữ các cơ quan, kho tàng. Khí thế nhân dân bừng bừng, tự may cờ Mặt trận treo khắp các đường phố chào đón quân giải phóng và cùng với lực lượng cơ sở nội thành canh gác bảo vệ các cơ quan, kho tàng”.

Đã từ lâu, cứ mỗi dịp đầu tháng Tư, nhà riêng của ông Nguyễn Thành Long, nguyên Đội trưởng Đội công tác Vùng 5, Vùng 6, thị ủy Vĩnh Trang trở thành nơi hội ngộ ấm áp của những đồng chí đồng đội tham gia giải phóng Nha Trang – Khánh Hòa năm xưa. “Khi nhận được tin quân địch rút chạy, tôi lập tức triệu tập cuộc họp Đội công tác, gồm các ông: Nguyễn Đức Toàn, Trần Thanh Châu, Nguyễn Thị Đo, Đặng Đức Long và lực lượng quân đội Tiểu đoàn Đặc công 407. Rồi thống nhất một đoàn 9 người chia làm 3 mũi tiến vào nội thị Nha Trang với kế hoạch nếu điều kiện tốt thì tiếp quản, còn không thì ở lại chiến đấu luôn, chứ không thể rút về vì đã bị lộ. Trưa hôm đó, chúng tôi đã nấu một xoong cơm nhưng không ai ăn được vì quá vui mừng. Ai nấy chọn cho mình bộ quần áo mới nhất để mặc, mang theo hết súng đạn. Khi đi đến đường Duy Tân, lòng vui mừng khôn xiết mà tự nhiên nước mắt tôi cứ trào ra!”, ông Long nhớ lại. Ông Võ Cao Lầu, cựu chiến sĩ liên, trinh Thị đội Nha Trang cũng xúc động: “Phong trào cách mạng ở Nha Trang – Khánh Hòa không ngừng lớn mạnh xuyên suốt từ kháng chiến chống Pháp cho đến chống Mỹ, dù có những lúc bị khủng bố, đàn áp nhưng vẫn luôn giữ vững. Khí thế ngày giải phóng rất hào hùng, từ nhân dân cho đến các lực lượng nổi dậy. Lúc đó, chúng tôi đi đâu, cần huy động lực lượng hỗ trợ bảo vệ các cơ quan, kho tàng là người dân sẵn sàng và họ chấp hành nghiêm lắm”.

Do đang trong thời gian tập trung phòng, chống dịch bệnh Covid-19, cuộc hội ngộ năm nay tại nhà ông Long không đông đủ như các năm trước. Dẫu chỉ có dăm ba người, nhưng cuộc gặp gỡ của những người đồng chí đồng đội đã kề vai sát cánh trong suốt những năm tháng kháng chiến giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, vẫn ấm áp đầy nghĩa tình. Và, hào khí về những ngày tháng Tư lịch sử lại trào dâng!

Theo Báo Khánh Hòa

PHẦN 3

KỶ NIỆM 45 GIẢI PHÓNG MIỀN NAM THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC

(30/4/1975 – 30/4/2020)

———–

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã đương đầu với tên đế quốc giàu mạnh nhất và hung bạo nhất trong phe đế quốc. Cuộc kháng chiến này phải trải qua nhiều giai đoạn, phải đối phó lần lượt với các kế hoạch chiến lược của đế quốc Mỹ. Đó là 5 giai đoạn: (1). Từ tháng 7/1954 đến hết năm 1960, ta tập trung đấu tranh giữ gìn lực lượng, chuyển dần sang thế tiến công, làm thất bại bước đầu phương thức chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ; (2). Từ đầu năm 1961 đến giữa năm 1965, ta giữ vững và phát triển thế tiến công, đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ; (3). Từ giữa năm 1965 đến hết năm 1968, Đảng phát động toàn dân chống Mỹ, cứu nước, đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ ở miền Nam, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ nhất ở miền Bắc; (4). Từ năm 1969 đến 1973, quân và dân ta phát huy sức mạnh liên minh chiến đấu Việt Nam-Lào-Campuchia, làm thất bại một bước chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ hai ở miền Bắc, tạo thế mạnh trong đàm phán; (5). Từ cuối năm 1973 đến ngày 30/4/1975 là giai đoạn thế và lực, tạo thời cơ, kiên quyết tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, kết thúc thắng lợi trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

 

Sau khi ký Hiệp định Paris (tháng 1/1973), mặc dù phải rút quân về nước nhưng đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục nuôi âm mưu dùng chính quyền ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn làm công cụ để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. Mỹ tăng cường tiền của, vũ khí, phương tiện chiến tranh cho chính quyền ngụy Sài Gòn lấn đất, giành dân, khống chế nhân dân, thực hiện các hoạt động ngoại giao xảo quyệt để ngăn chặn sự phát triển của cách mạng miền Nam. Đến tháng 5/1973, xu thế chống phá Hiệp định Paris của địch ngày càng tăng. Chúng điên cuồng đánh phá hòng xóa bỏ vùng giải phóng của ta, đẩy lùi lực lượng cách mạng.

Bà Nguyễn Thị Bình, Bộ trưởng Ngoại giao của Chính Phủ Cách mạng Lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam ký Hiệp định Paris 1973

Tháng 7/1973, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 21 đã khẳng định con đường cách mạng miền Nam muốn giành được thắng lợi trọn vẹn vẫn là con đường bạo lực để giành chính quyền và đề ra các nhiệm vụ lớn cho hai miền Nam-Bắc. Nửa cuối năm 1974, cuộc chiến tranh của quân và dân ta ở miền Nam chống lại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” đã giành được những thắng lợi cơ bản. Ta càng mạnh lên, ngụy càng suy yếu rõ rệt. Nước Mỹ lâm vào khủng hoảng nội bộ, ngày càng có nhiều tiếng nói trong chính quyền, trong nhân dân Mỹ và nhân dân thế giới đòi chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Tháng 7/1974, Trung ương Đảng chỉ đạo Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam xây dựng kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976, nếu thời cơ đến sẽ giải phóng miền Nam trong năm 1975. Với những thắng lợi trên toàn miền, nhất là của miền Đông Nam Bộ, đặc biệt là chiến thắng Phước Long cuối năm 1974 đầu năm 1975 càng cho thấy thực tế suy yếu của quân ngụy Sài Gòn và khả năng Mỹ khó có thể quay trở lại miền Nam. Đảng ta nhận định thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam đã đến và quyết định đẩy nhanh thực hiện kế hoạch đã đề ra.

Quân Giải phóng đánh chiếm sở chỉ huy Sư đoàn 23 ngụy trong trận Buôn Ma Thuột, tháng 3-1975. Ảnh tư liệu

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 bắt đầu từ ngày 4/3 bằng ba đòn chiến lược: Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu bằng trận đột phá đánh chiếm Buôn Ma Thuột, giải phóng Tây Nguyên; Chiến dịch giải phóng Huế-Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn-Gia Định kết thúc vào ngày 30/4/1975. Qua gần hai tháng chiến đấu với sức mạnh áp đảo về chính trị và quân sự, quân và dân ta đã giành được toàn thắng, non sông thu về một mối, kết thúc 21 năm cuộc kháng chiến thần thánh chống đế quốc Mỹ xâm lược.

 

Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả vĩ đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng và chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước mấy nghìn năm lịch sử của dân tộc. Nhân dân ta đánh thắng tên đế quốc đầu sỏ, lớn mạnh và hung hãn nhất của loài người tiến bộ; kết thúc oanh liệt cuộc chiến đấu 30 năm giành độc lập, tự do, thống nhất cho đất nước; chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; đánh dấu bước ngoặt quyết định trong lịch sử dân tộc, đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do, cả nước vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH). Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cũng là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới; góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ, động viên, khích lệ các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc, mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân mới trên toàn thế giới.

 

 

Để có thắng lợi vĩ đại trên, trước hết là do sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình của Đảng, nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Hai là, nhân dân và các LLVT nhân dân đã phát huy truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, một lòng đi theo Đảng, theo Bác Hồ, chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, bền bỉ, lao động quên mình vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì CNXH, vì hạnh phúc của nhân dân. Ba là, cả nước đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động trên dưới một lòng, triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh Mỹ và thắng Mỹ. Năm là, phát huy tinh thần đoàn kết, liên minh chiến đấu với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia. Tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các nước phe xã hội chủ nghĩa (XHCN), của nhân dân tiến bộ trên thế giới.

 

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cũng giúp cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta những bài học kinh nghiệm quý báu. Đó là các bài học: Xác định đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam; phát huy sức mạnh thời đại; vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt phương pháp đấu tranh cách mạng, phương thức tiến hành chiến tranh toàn dân và nghệ thuật quân sự chiến tranh toàn dân, xây dựng và phát triển lý luận chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân Việt Nam; chủ động, nhạy bén, linh hoạt trong chỉ đạo chiến lược chiến tranh cách mạng, nghệ thuật tạo và nắm bắt thời cơ giành những thắng lợi quyết định; đồng thời phải luôn luôn chú trọng xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong mọi hoàn cảnh, nâng cao sức chiến đấu và phát huy hiệu lực lãnh đạo của Đảng.

Kỷ niệm 45 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là dịp để ôn lại những trang sử hào hùng của dân tộc, nhìn lại chặng đường phấn đấu, xây dựng và phát triển đất nước, đồng thời nhận thức sâu sắc, đầy đủ, toàn diện hơn những giá trị, những bài học kinh nghiệm quý báu được tổng kết từ trong thực tiễn đấu tranh của dân tộc ta để tiếp thêm sức mạnh, ý chí quyết tâm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa. Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang ra sức thi đua thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, 75 năm Ngày Quốc khánh nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, nên phát huy hào khí của Ngày Chiến thắng 30/4, chúng ta tiếp tục phấn đấu đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, thực hiện mục tiêu cao cả của Đảng: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên Chủ nghĩa Xã hội.

Theo Báo Quân đội Nhân dân

PHẦN 4

THEO DÒNG LỊCH SỬ

———–

  Giỗ tổ Hùng Vương 02/4/2020 (Mùng 10/3 âm lịch)

– Tuyên truyền, giáo dục cho thế hệ trẻ về ý nghĩa của Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương và Lễ hội Đền Hùng, về truyền thống dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc, về truyền thống lịch sử, văn hóa, cách mạng cùng những phong tục, tập quán tốt đẹp của đất nước, con người Việt Nam. Thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với các Vua Hùng và các bậc tiền nhân – những người đã có những đóng góp to lớn trong công cuộc đấu tranh giữ gìn, dựng xây và phát triển đất nước.

– Tuyên truyền, phổ biến những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về đại đoàn kết toàn dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung của người Việt Nam.

  1. Kỷ niệm 113 năm ngày sinh cố Tổng bí thư Lê Duẩn 07/4/1907

– Tuyên truyền về thân thế, sự nghiệp và khẳng định những đóng góp to lớn củaTổng Bí thư Lê Duẩn – người học trò kiệt xuất của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam, tấm gương người chiến sĩ cộng sản kiên cường, suốt đời phấn đấu vì lý tưởng cao đẹp của dân tộc, người con ưu tú của quê hương Quảng Trị với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.

– Phản ánh các hoạt động tổ chức kỷ niệm, các phong trào thi đua yêu nước, không khí của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân chào mừng kỷ niệm 113 năm Ngày sinh Tổng Bí thư Lê Duẩn tại các địa phương, cơ sở.

– Tuyên truyền giới thiệu về tiểu sử, thân thế, cuộc đời, sự nghiệp cách mạng và các hoạt động về nguồn tham quan các di tích, khu lưu niệm tại địa phương và quê hương của đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn trên các phương tiện truyền thông của Đoàn.

  1. Kỷ niệm 150 năm ngày sinh V.I.Lênin 22/4/1870

– Cuộc đời, sự nghiệp và những cống hiến vĩ đại của V.I.Lênin – Lãnh tụ cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

– Khẳng định giá trị bền vững và sức sống của chủ nghĩa Mác – Lênin trong thời đại ngày nay; đồng thời tuyên truyền sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào sự nghiệp cách mạng của Việt Nam trong giai đoạn mới; đấu tranh phản bác các thông tin, quan điểm sai trái, xuyên tạc phủ nhận giá trị của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

 

 

PHẦN 5

THANH NIÊN VỚI PHÁP LUẬT

———- 

Những chính sách mới có hiệu lực trong tháng 3 

  1. Trợ cấp đối với nhà giáo chưa có phụ cấp thâm niên trong lương hưu

Đây là quy định mới tại Nghị định 14/2020/NĐ-CP, quy định về chế độ trợ cấp đối với nhà giáo đã nghỉ hưu chưa được hưởng chế độ phụ cấp thâm niên trong lương .

Những đối tượng áp dụng là những nhà giáo nghỉ hưu được quy định tại Điều 2 Nghị định này sẽ được hưởng thêm trợ cấp khi chưa được hưởng phụ cấp thâm niên.

Để được hưởng trợ cấp, Nghị định quy định những nhà giáo trên được hưởng chế độ trợ cấp khi có đủ các điều kiện: trực tiếp giảng dạy, giáo dục, hướng dẫn thực hành và tham gia đóng bảo hiểm xã hội từ 5 năm trở lên; nghỉ hưu trong khoảng thời gian từ ngày 1-1-1994 đến ngày 31-5-2011; đang hưởng lương hưu tại thời điểm ngày 1-1-2012. Trường hợp bị tạm dừng hưởng lương hưu thì được hưởng trợ cấp sau khi được hưởng lại lương hưu.

Mức trợ cấp được quy thành tiền và tính theo công thức: Số tiền trợ cấp = (Mức lương hưu tháng x 10%) x Số năm được tính trợ cấp

Trường hợp giáo viên đủ điều kiện hưởng trợ cấp nhưng chưa được hưởng trợ cấp mà từ trần từ 1-1-2012 trở về sau thì vợ, chồng, bố, mẹ, hoặc con có thể làm hồ sơ và nhận chế độ trợ cấp theo quy định.

Quy định này có hiệu lực từ ngày 15/3/2020.

  1. Nghiêm cấm có hành vi gian dối để làm thủ tục giải quyết các việc về quốc tịch

Đây là một trong điểm mới tại Nghị định 16/2020/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam.

Luật quốc tịch Việt Nam và Nghị định số 78/2009/NĐ-CP đều không có quy định về những hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động quốc tịch, do đó, không có cơ sở pháp lý để xử lý khi phát sinh trên thực tế. Vì vậy, tại Điều 6 Nghị định số 16/2009/NĐ-CP đã bổ sung quy định mới về các hành vi bị nghiêm cấm, bao gồm các hành vi: (1) Dùng giấy tờ giả, giấy tờ bị sửa chữa, tẩy xóa làm sai lệch nội dung; khai báo không trung thực, có hành vi gian dối để làm thủ tục giải quyết các việc về quốc tịch; (2) Dùng giấy tờ không còn giá trị chứng minh quốc tịch Việt Nam theo quy định tại khoản 1 Điều 4 của Nghị định này để chứng minh đang có quốc tịch Việt Nam; (3) Lợi dụng thẩm quyền được giao để cấp giấy tờ về quốc tịch Việt Nam, giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam hoặc giấy tờ khác có ghi quốc tịch Việt Nam trái quy định của pháp luật; xác nhận không có cơ sở, không đúng sự thật về người xin nhập, xin trở lại quốc tịch Việt Nam; (4) Lợi dụng việc nhập, trở lại, thôi quốc tịch Việt Nam và việc xin giữ quốc tịch nước ngoài khi được nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam để xâm hại an ninh, lợi ích quốc gia, trật tự, an toàn xã hội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phương hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam.

Trường hợp cá nhân, tổ chức thực hiện các hành vi nêu trên thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý theo quy định của pháp luật; giấy tờ quy định tại (2), giấy tờ được cấp trong các trường hợp (1) và (3) không có giá trị pháp lý, phải bị thu hồi hủy bỏ….

Nghị định 16/2020/NĐ-CP sẽ có hiệu lực từ ngày 20/03/2020.

  1. Sửa đổi, bổ sung một số điều kiện về kinh doanh rượu

Theo Nghị định số 17/2020/NĐ-CP ngày 5/2/2020 về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Công Thương, Chính phủ đã bổ sung một chương quy định về kinh doanh rượu có độ cồn dưới 5,5 độ.

Cụ thể, điều kiện sản xuất rượu có độ cồn dưới 5,5 độ gồm: Một là, doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoặc hộ kinh doanh được thành lập theo quy định của pháp luật. Hai là, tuân thủ các quy định của pháp luật về an toàn thực phẩm. Ba là, đăng ký với Phòng Kinh tế hoặc Phòng Kinh tế và Hạ tầng thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi thương nhân đặt cơ sở sản xuất. Trường hợp có thay đổi nội dung đã đăng ký phải thực hiện đăng ký bổ sung.

Nghị định cũng quy định cụ thể về điều kiện nhập khẩu rượu có độ cồn dưới 5,5 độ.

Nghị định số 17/2020/NĐ-CP nêu rõ, điều kiện bán rượu có độ cồn dưới 5,5 độ gồm: doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoặc hộ kinh doanh được thành lập theo quy định của pháp luật; tuân thủ các quy định của pháp luật về an toàn thực phẩm; Đăng ký với Phòng Kinh tế hoặc Phòng Kinh tế và Hạ tầng thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi thương nhân đặt cơ sở kinh doanh trước khi tiến hành hoạt động kinh doanh. Trường hợp có thay đổi nội dung đã đăng ký phải thực hiện đăng ký bổ sung.

Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 22/3/2020.

  1. Buộc thôi việc công chức vòi tiền người vi phạm

Đây là hình thức xử lý kỷ luật cao nhất đối với cán bộ, công chức, viên chức vi phạm trong quá trình xử lý vi phạm hành chính được quy định tại Nghị định số 19/2020/NĐ-CP về kiểm tra, xử lý kỷ luật trong thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính năm 2020 của Chính phủ.

Theo đó, các cán bộ, công chức, viên chức sẽ bị áp dụng hình thức kỷ luật buộc thôi việc nếu vi phạm một trong các hành vi sau đây:

Giữ lại vụ vi phạm có dấu hiệu tội phạm để xử lý vi phạm hành chính; Giả mạo, làm sai lệch hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính, hồ sơ áp dụng biện pháp xử lý hành chính; Chống đối, cản trở người làm nhiệm vụ kiểm tra, đe dọa, trù dập người cung cấp thông tin, tài liệu cho cơ quan kiểm tra, đoàn kiểm tra, gây khó khăn cho hoạt động kiểm tra; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để sách nhiễu, đòi, nhận tiền, tài sản của người vi phạm; dung túng, bao che, hạn chế quyền của người vi phạm hành chính khi xử lý vi phạm hành chính.

Nghị định có hiệu lực từ 31/3/2020. Riêng các quy định về xử lý kỷ luật sẽ có hiệu lực từ ngày 1/7/2020.

(Nguồn:dangcongsan.vn/phap-luat/nhung-chinh-sach-moi-co-hieu-luc-tu-thang-3-549463.html)

 

PHẦN 6

VĂN BẢN MỚI BAN HÀNH 

Công văn về việc đẩy mạnh các biện pháp tham gia phòng chống dịch Covid – 19

————

          Ngày 26/3/2020, Ban Thường vụ Tỉnh đoàn Khánh Hòa ban hành công văn số 1093-CV/TĐTN-BTG, chỉ đạo các huyện, thị, thành đoàn và đoàn trực thuộc khẩn trương triển khai thực hiện khai báo y tế trên ứng dụng NCOVI, cụ thể như sau:

  1. Đẩy mạnh tuyên truyền trong đoàn viên, thanh thiếu niên và người dân; thường xuyên đăng tải các thông tin chính thống phản ánh về hoạt động phòng chống dịch Covid-19 của cả nước, địa phương và thanh niên; thực hiện đa dạng các sản phẩm tuyên truyền về ý thức và cách thức phòng, chống dịch Covid – 19, tầm quan trọng của việc khai báo sức khỏe tự nguyện, hướng dẫn quy trình khai báo y tế và cập nhật thông tin qua ứng dụng NCOVI trên các báo chí, website, fanpage của Đoàn, Hội, Đội (có hướng dẫn gửi kèm và đăng tải trên Fanpage Tỉnh đoàn Khánh Hòa).
  2. Yêu cầu 100% cán bộ Đoàn, Hội, Đội; 100% cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong các cơ quan chuyên trách, đơn vị trực thuộc của Đoàn, 100% đoàn viên, hội viên thực hiện khai báo y tế và cập nhật thông tin y tế hằng ngày trên ứng dụng NCOVI; vận động, hướng dẫn, giúp đỡ người thân trong gia đình, người cùng cơ quan, đơn vị, nơi cư trú thực hiện khai báo và cập nhật thông tin y tế.
  3. Báo cáo với Ban Chỉ đạo phòng chống dịch Covid-19 tại các địa phương, phối hợp ngành Y tế triển khai các đội hình thanh niên tình nguyện thường xuyên nắm bắt tình hình sức khỏe, hỗ trợ người cao tuổi, người yếu thế, người có bệnh nền thực hiện khai báo và cập nhật thông tin y tế qua mạng, trực tiếp tại gia đình hoặc nơi làm việc. Tổ chức các đội hình tình nguyện hỗ trợ các nơi cách ly, vận động ủng hộ nguồn lực, đề xuất sáng kiến tham gia phòng chống dịch.
  4. Thực hiện nghiêm việc không tụ tập đông người, tuyên truyền vận động nhân dân không tụ tập, đến những nơi đông người cho đến khi có thông báo mới của cơ quan chức năng. Tiếp tục đổi mới phương thức tổ chức các hoạt động phù hợp với điều kiện phòng, chống dịch.
  5. Thực hiện đầy đủ, nghiêm túc việc khai báo y tế để thu thập thông tin y tế phục vụ phòng chống, dịch COVID-19 qua đường link: https://tokhaiyte.vn/. Chủ động tổ chức các đội hình tình nguyện hỗ trợ người già, người khuyết tật, người yếu thế thực hiện khai báo y tế trực tiếp tại nhà, vận động đoàn viên, thanh niên và người dân không đi ra nước ngoài, không đi ngoại tỉnh nhất là vùng đang có dịch.
  6. Tổ chức Đoàn thanh niên các cấp tích cực tham gia chống dịch theo sự phân công của chính quyền và Ban Chỉ đạo phòng, chống dịch COVID-19 cùng cấp.

>> Link văn bản: https://htvb.tinhdoankhanhhoa.org.vn/1doan/laws/view-424-1093-CV-TDTN-BTG/

Hiểu đúng về Cách ly xã hội theo tinh thần Chỉ thị 16 của Thủ tưởng Chính phủ.

( Nội dung được đăng tải trên fanpage Tỉnh đoàn Khánh Hòa )  

BAN TỔ CHỨC – KIỂM TRA TỈNH ĐOÀN