Tài liệu tuyên truyền kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam (18/11/1930 – 18/11/2010)
I- MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT VIỆT NAM RA ĐỜI ĐÁNH DẤU BƯỚC PHÁT TRIỂN VỀ CHẤT PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CỦA NHÂN DÂN TA
Từ cuối thế kỷ XIX thực dân Pháp xâm lược thống trị nước ta, đã biến nước ta từ chế độ phong kiến lạc hậu thành một chế độ thuộc địa và nửa phong kiến. Về chính trị, chúng áp đặt chế độ cai trị thực dân chuyên chế hà khắc và tàn bạo. Về kinh tế, chúng tiến hành các chương trình khai thác thuộc địa, thực hiện chính sách độc quyền, kìm hãm sự phát triển kinh tế độc lập của nước ta, vơ vét tài nguyên, bóc lột nặng nề, biến nước ta thành thị trường tiêu thụ hàng hoá của “chính quốc”. Về văn hoá, thực dân Pháp thực hiện chính sách ngu dân để dễ bề nô dịch. Các quyền tự do đều bị cấm. Chúng bưng bít, ngăn chặn ảnh hưởng các tư tưởng tiến bộ trên thế giới vào nước ta. Sự thống trị của thực dân Pháp và phong kiến tay sai đã làm cho mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp, mâu thuẫn giữa nhân dân ta mà chủ yếu là nông dân với chế độ phong kiến ngày càng gay gắt.
Với truyền thống yêu nước, đoàn kết, nhân dân ta đã liên tục nổi dậy đấu tranh kiên cường chống lại bọn thực dân Pháp đô hộ và tay sai nhưng đều không mang lại kết quả. Sự thất bại của phong trào Cần Vương với khởi nghĩa của Phan Đình Phùng (1896) đã chấm dứt phong trào chống Pháp theo hệ tư tưởng phong kiến. Sang thế kỷ XX, phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các sĩ phu đầy nhiệt huyết như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng thất bại,… Cuộc đấu tranh giành độc lập tự do của nhân dân ta do khủng hoảng về đường lối cứu nước và thiếu giai cấp có khả năng đoàn kết và lãnh đạo nên không thống nhất được các lực lượng cách mạng. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định “việc lớn chưa thành không phải vì đế quốc mạnh mà vì nhân dân ta chưa hợp lực đồng tâm” 1.
Khác với các nhà yêu nước tiền bối, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này) là người Việt Nam đầu tiên tìm thấy ánh sáng giải phóng trong đêm trường nô lệ. Người đã bôn ba hải ngoại qua nhiều nước châu Âu, châu Phi, châu Mỹ, để xem người ta làm thế nào rồi trở về thức tỉnh, tập hợp đồng bào mình tự giải phóng đất nước mình. Người đã phát hiện ra chân lý: “Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn của mọi đau khổ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở “chính quốc” cũng như ở các thuộc địa”. Thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Mười Nga, đặc biệt là luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê-nin đã ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Năm 1919 Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người cộng sản đầu tiên của Việt Nam và là một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Cuối năm 1920 Người gia nhập Quốc tế Cộng sản. Từ năm 1924 đến 1930 Nguyễn Ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về tư tưởng và tổ chức, đặt nền móng cho sự ra đời của Đảng và các tổ chức quần chúng. Các tác phẩm: “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Đường kách mệnh”, tham luận tại các Đại hội và Hội nghị quốc tế của Nguyễn Ái Quốc đã nêu rõ quan điểm, đường lối chính trị đúng đắn cho cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận Dân tộc thống nhất của Hồ Chí Minh trở thành một bộ phận của đường lối cứu nước. Đi đôi với việc chuẩn bị về đường lối chính trị, Nguyễn Ái Quốc còn gấp rút chuẩn bị về tổ chức và cán bộ như: thành lập “Hội những người Việt Nam yêu nước”, “Hội liên hiệp thuộc địa”, “Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức” ở Á Đông. Người còn sáng lập ra “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội”, tổ chức tiền thân của Đảng và đào tạo hàng trăm cán bộ trong các lớp huấn luyện cách mạng mở tại Quảng Châu (Trung Quốc) và gửi đi học ở Liên Xô.
Ngày 3-2-1930 dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị hợp nhất 3 tổ chức cộng sản ở Việt Nam đã nhất trí thành lập một đảng thống nhất là Đảng cộng sản Việt Nam. Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam.
Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng đã xác định cách mạng Việt Nam là cách mạng tư sản dân quyền với hai nhiệm vụ chiến lược, có quan hệ khăng khít với nhau là đánh đổ đế quốc và phong kiến giành độc lập dân tộc, xây dựng Nhà nước dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cuộc cách mạng đó phải được tiến hành bằng lực lượng cách mạng rộng lớn của toàn dân, lấy công nông làm động lực chính, do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo và là một bộ phận của cách mạng thế giới. Ngoài công nông, Đảng phải đoàn kết tất cả các giai cấp và tầng lớp có tinh thần yêu nước; phân hoá, cô lập những phần tử chống đối cách mạng. Đó chính là cơ sở để Đảng đề ra các nguyên tắc, sách lược và chiến lược xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất. Thực hiện các chủ trương của Đảng, một cao trào cách mạng diễn ra trên qui mô cả nước với đỉnh cao là Xô Viết – Nghệ Tĩnh. Qua đấu tranh, Đảng ta càng nhận thức rõ hơn tầm quan trọng và tính cấp thiết của việc xây dựng những hình thức của Mặt trận Dân tộc thống nhất. Tháng 10-1930 Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng đã thông qua Luận cương chính trị, đồng thời còn ra “Án nghị quyết về vấn đề phản đế”. Bản nghị quyết chỉ rõ: “Ở Đông Dương hiện nay có nhiều lực lượng phản đế cần phải liên hiệp lại thành một phong trào thống nhất để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mưu giải phóng cho xứ Đông Dương. Việc tổ chức phản đế là một nhiệm vụ cần kíp của Đảng“. Chỉ hơn 1 tháng sau khi có Án nghị quyết về vấn đề phản đế, ngày 18-11-1930 Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương 2 ra Chỉ thị thành lập Hội phản đế đồng minh.
Bản Chỉ thị đã đề ra những nội dung cơ bản về tính chất, nhiệm vụ và những biện pháp xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất trên cơ sở phân tích hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng, đặc biệt là mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Bản Chỉ thị đã xác định Hội phản đế đồng minh phải bảo đảm tính công nông, đồng thời phải mở rộng tới các thành phần trong dân tộc để Mặt trận thực sự là của toàn dân và nhấn mạnh: “giai cấp vô sản lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công“. Bản Chỉ thị cũng phân tích và đánh giá đúng sự chuyển biến về thái độ chính trị của các giai cấp và tầng lớp xã hội đã được thử thách qua cao trào cách mạng.
Hội phản đế đồng minh – hình thức tổ chức đầu tiên của Mặt trận dân tộc thống nhất ra đời đã gây được cao trào phản đế mạnh mẽ trong cả nước, có ảnh hưởng sâu rộng trong các tầng lớp quần chúng, đánh dấu sự trưởng thành về nhận thức và chỉ đạo thực tiễn của Đảng ta trong quá trình tổ chức và xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất. Đó là kết quả của quá trình chuẩn bị công phu suốt trong một thập kỷ, đó cũng là cống hiến vĩ đại về lý luận và thực tiễn của Nguyễn Ái Quốc gắn phong trào yêu nước Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân Việt Nam đi theo con đường mà chính Người đã trải qua từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác – Lênin, kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
II- NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ VẺ VANG CỦA MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT
A. Thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930-1945).
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đa số nhân dân đã đưa cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân diễn ra với 3 cao trào cách mạng có ý nghĩa như 3 cuộc tổng diễn tập chuẩn bị cho cách mạng tháng Tám. Đó là: cao trào cách mạng (1930-1935) mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh; cao trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ (1936-1939) và cao trào giải phóng dân tộc (1939-1945) dẫn tới cách mạng tháng Tám. Từ Hội phản đế đồng minh (1930) đến Phản đế liên minh (1935) tuy tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Nguyễn Ái Quốc chưa được quán triệt sâu rộng và triển khai rộng rãi nhưng đã góp phần quan trọng vào việc tổ chức, tập hợp lực lượng đấu tranh theo đường lối của giai cấp công nhân cách mạng.
Trong những năm 1936-1939 tình hình thế giới diễn biến mau lẹ, phức tạp. Chủ nghĩa phát xít xuất hiện, nguy cơ chiến tranh thế giới đang đến gần. Sau khi dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ 7 trở về, đoàn đại biểu Đảng ta cùng với Ban chấp hành Trung ương họp Hội nghị (tháng 11-1936) xác định mục tiêu chủ yếu và nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam lúc này là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hoà bình. Đảng quyết định tạm thời chưa nêu khẩu hiệu “đánh đổ đế quốc Pháp và giai cấp địa chủ giành độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày” đồng thời chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương.
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng (tháng 3-1938) quyết định đổi tên thành Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương gọi tắt là Mặt trận dân chủ Đông Dương. Nhờ có chính sách Mặt trận đúng đắn, có phương pháp vận động khôn khéo, phương pháp đấu tranh linh hoạt nên Mặt trận đã tập hợp, đoàn kết rộng rãi chẳng những công nhân, nông dân, tiểu thương, tiểu chủ tư sản nhỏ mà còn bắt tay với các đảng phái cải lương, kể cả những người Pháp tiến bộ ở Đông Dương nhằm chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do, cơm áo, hoà bình “Phong trào ấy đã lôi cuốn và giáo dục ý thức chính trị cho hàng triệu quần chúng; uy tín của Đảng càng được mở rộng và ăn sâu trong nhân dân lao động” đã để lại cho Đảng và Mặt trận dân tộc thống nhất ngày nay những kinh nghiệm quý báu “việc gì đúng với nguyện vọng nhân dân thì được quần chúng nhân dân ủng hộ và hăng hái đấu tranh và như vậy mới là một phong trào quần chúng”.3
Ngày 1-9-1939 chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ, thực dân Pháp đầu hàng và thoả hiệp với phát xít Nhật thẳng tay đàn áp phong trào dân chủ chống chiến tranh của nhân dân ta. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 11-1939 đã chỉ rõ bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn con đường nào khác hơn con đường đánh đổ đế quốc Pháp; chống tất cả các ách ngoại xâm, tiến lên giải phóng dân tộc và nhấn mạnh nhiệm vụ chấn chỉnh các tổ chức quần chúng và chuyển hoạt động của Mặt trận dân chủ thành Mặt trận Dân tộc thống nhất chống chiến tranh. Tháng 11-1940 Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng chủ trương thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế, nhằm tập hợp hết thảy những lực lượng phản đế, phản phong kiến ở Đông Dương đánh đổ đế quốc Pháp – phát xít Nhật và bè lũ tay sai phản lại quyền lợi dân tộc. Nhờ những chủ trương đúng đắn đó, các tổ chức phản đế nhanh chóng được phát triển, Mặt trận được mở rộng trong các tầng lớp nhân dân.
Năm 1941 tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến chuyển. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc về nước để trực tiếp cùng Trung ương lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám để xem xét các chủ trương, chính sách của Đảng. Hội nghị nhận định: Cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc giải phóng, trước mắt tạm gác khẩu hiệu cách mạng thổ địa để lôi kéo địa chủ tiến bộ, mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất chống Pháp, Nhật nhằm giải quyết nhiệm vụ sống còn của dân tộc lúc này là giải phóng dân tộc. “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề giải phóng dân tộc, không thực hiện được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.4
Để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc theo đề nghị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh bao gồm các hội cứu quốc của các tầng lớp nhân dân. Hội nghị vạch rõ chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm. Hội nghị cũng quyết định lấy cờ đỏ sao vàng năm cánh làm cờ của Việt Minh và làm cờ Tổ quốc khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; quy định những nguyên tắc về tuyên truyền, tổ chức, khẩu hiệu và phương thức đấu tranh,… Nhờ có chính sách đúng của Đảng, phong trào Việt Minh đã phát triển nhanh chóng và lan tỏa khắp nước. Cao Bằng trở thành trung tâm của phong trào cứu quốc của cả nước. Tháng 10-1941 Việt Minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ. Đây là lần đầu tiên một Mặt trận dân tộc thống nhất trình bày rõ ràng đường lối, chính sách, phương pháp tiến hành và tổ chức lực lượng đấu tranh để thực hiện mục đích cứu nước của mình. Ngày 7-5-1944 Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị về sửa soạn khởi nghĩa. Tháng 10-1944 Bác Hồ có thư kêu gọi đồng bào ra sức chuẩn bị để họp Toàn quốc đại hội, đại biểu cho tất cả các đảng phái cách mệnh và các đoàn thể trong nước để bầu cử ra “Một cơ cấu đủ lực lượng và uy tín, trong thì lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các hữu bang”.
Ngày 22-12-1944 Bác Hồ ra chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Ngày 9-3-1945 Nhật lật đổ Pháp, độc chiếm Đông Dương. Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta“. Thực hiện chỉ thị đó, một cao trào cách mạng đã xuất hiện ở nhiều nơi; khu giải phóng Việt Bắc gồm 6 tỉnh được thành lập. Tình hình chuyển biến mau lẹ, phát xít Đức đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng Minh. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc kêu gọi đồng bào dũng cảm tiến lên dưới ngọn cờ của Việt Minh hãy “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Đại hội quốc dân do Tổng bộ Việt Minh triệu tập họp ở Tân Trào trong 2 ngày 16 và 17-8-1945 đã nhiệt liệt tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa do Đảng Cộng sản kiến nghị, thông qua Lệnh khởi nghĩa và 10 chính sách lớn của Việt Minh, quyết định Quốc kỳ, Quốc ca. “Đại hội đã cử ra Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam, sau này trở thành Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” 5 do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Chỉ trong vòng 2 tuần lễ chính quyền địch hoàn toàn sụp đổ, Uỷ ban nhân dân lâm thời được thành lập khắp các địa phương trong cả nước. Ngày 2-9-1945 tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
B. Thời kỳ bảo vệ và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám, tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1946 -1975).
1. Mặt trận Việt Minh tăng cường đoàn kết toàn dân góp phần bảo vệ và giữ vững chính quyền cách mạng.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền cách mạng đứng trước tình thế vô cùng hiểm nghèo, nạn đói đe doạ sinh mệnh hàng triệu người. Thực dân Pháp núp dưới bóng quân Đồng Minh vào nước ta (với danh nghĩa tước vũ khí quân đội Nhật) đã nổ súng mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam từ ngày 23-9-1945. Ở Phía Bắc 18 vạn quân Quốc dân Đảng Trung Hoa đem theo bọn phản cách mạng Việt Nam thực hiện âm mưu “diệt Cộng cầm Hồ” nhằm “tiêu diệt Đảng ta”, “phá tan Việt Minh”. Để bảo vệ chính quyền cách mạng, làm thất bại mọi âm mưu của kẻ thù và tay sai, nhiệm vụ củng cố và phát triển Việt Minh được đề ra cụ thể. Đó là việc phát triển các tổ chức cứu quốc thống nhất trong cả nước. Đảng ta chuyển vào hoạt động bí mật. Từ đó vai trò của Việt Minh trong đời sống chính trị của đất nước ngày càng được đề cao, ngày càng thu nhận thêm những thành viên mới, góp phần ngăn chặn và phân hoá hàng ngũ các đảng phái chính trị phản động bám gót quân Tưởng, đồng thời tuyên truyền vận động nhân dân tham gia các phong trào sản xuất cứu đói, tuần lễ vàng, hũ gạo tiết kiệm v.v… Nhờ những hoạt động có hiệu quả của Việt Minh, khối đại đoàn kết toàn dân thực sự trở thành hậu thuẫn vững chắc chống thù trong giặc ngoài, đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh nguy hiểm, bảo vệ được chính quyền, chủ động chuẩn bị cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Đánh giá công lao to lớn của Việt Minh, Tuyên ngôn của Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh – Liên Việt tháng 3-1951 nêu rõ: “Việt Minh có công lớn trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, chống quân cướp nước. Công đức ấy tất cả mọi người Việt Nam phải ghi nhớ. Lịch sử của Việt Minh 10 năm đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc cũng là những trang lịch sử vẻ vang vào bậc nhất của dân tộc Việt Nam ta”.
2. Mặt trận thống nhất Việt Minh – Liên Việt (gọi tắt là Mặt trận Liên Việt) đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn.
Để đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng và sự phát triển của Mặt trận dân tộc thống nhất, Bác Hồ và Trung ương Đảng chủ trương vận động thành lập Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam (Hội Liên Việt). Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 29-5-1946 Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam tuyên bố thành lập. Cương lĩnh của Hội chỉ rõ: “Mục đích đoàn kết tất cả các đảng phái yêu nước và đồng bào yêu nước vô đảng phái, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, xu hướng chính trị, chủng tộc để làm cho nước Việt Nam độc lập – thống nhất – dân chủ – phú cường“. Việc thành lập Hội Liên Việt là bước phát triển mới của Mặt trận dân tộc thống nhất.
Từ giữa năm 1946, đất nước đứng trước tình thế vô vàn khó khăn. Để tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chính phủ liên hiệp kháng chiến được thành lập. Thực hiện lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt đã ra sức tuyên truyền vận động nhân dân tham gia kháng chiến. Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt ngày càng sát cánh bên nhau, đẩy mạnh mọi hoạt động, xây dựng tổ chức, phát triển lực lượng nhằm mục tiêu chung là kháng chiến thắng lợi, giành độc lập dân tộc. Việc thống nhất Việt Minh và Liên Việt trở thành yêu cầu khách quan của kháng chiến và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta nhằm củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.
Ngày 3-3-1951, Đại hội toàn quốc Mặt trận thống nhất Việt Minh – Liên Việt lấy tên là Mặt trận liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Mặt trận Liên Việt) được tiến hành. Đại hội lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Đương (5-1951), tuyên bố ra công khai với tên gọi là Đảng Lao động Việt Nam có sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam và lãnh đạo Mặt trận dân tộc thống nhất. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Mặt trận Liên Việt đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình: Tăng cường đại đoàn kết toàn dân, vận động các giới đồng bào chấp hành tốt các chính sách của Đảng và Nhà nước, đập tan mọi hoạt động tàn bạo và âm mưu thâm độc của kẻ thù, vận động nhân dân thực hiện giảm tô, giảm tức, và cải cách ruộng đất nhằm động viên khí thế cách mạng của nông dân, tăng cường liên minh công nông, góp phần củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất. Quá trình kháng chiến toàn dân, toàn diện làm cho Mặt trận dân tộc thống nhất không ngừng lớn mạnh, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi. Qua 9 năm kháng chiến, Mặt trận Liên Việt trở thành “… Một trong những trụ cột của Nhà nước dân chủ nhân dân, là sức mạnh vô biên của cuộc kháng chiến, kiến quốc; là cơ sở quần chúng rộng rãi làm thành một áo giáp vững bền của Đảng để đánh thắng bọn xâm lược và tay sai của chúng” 6
3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam cùng với Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình Việt Nam, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng.
– Sau Hiệp định Giơnevơ, đặc điểm lớn nhất của cách mạng Việt Nam lúc này là đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền, tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược song đều có mục tiêu chung là hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Ngày 10-9-1955, Đại hội Mặt trận Dân tộc thống nhất họp tại Hà Nội đã quyết định thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và thông qua Cương lĩnh nhằm đoàn kết mọi lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình trong cả nước để đấu tranh chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vận động các tầng lớp nhân dân ra sức thi đua yêu nước, tham gia khôi phục kinh tế và phát triển văn hóa, hàn gắn vết thương chiến tranh, cải tạo và xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa thực sự là cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước nhà.
Để Mặt trận không ngừng phát huy vai trò của mình, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm theo dõi và chỉ đạo công tác Mặt trận. Tại lớp huấn luyện cán bộ Mặt trận (8-1962), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chính sách Mặt trận là một chính sách rất quan trọng. Công tác Mặt trận là công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng”.7
Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng nêu rõ: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã đoàn kết các giai cấp, các đảng phái, các dân tộc, các tôn giáo, các nhân sĩ yêu nước và tán thành chủ nghĩa xã hội, nhờ đó đã động viên mọi lực lượng yêu nước và tiến bộ của dân tộc để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”.8
– Từ cao trào đấu tranh của nhân dân miền Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, ngày 20-12-1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời với bản Tuyên ngôn và Chương trình hành động 10 điểm, nội dung cơ bản là đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân với mục tiêu đấu tranh “Phải hòa bình! Phải độc lập! Phải dân chủ! Phải cơm no, áo ấm! Phải hòa bình, thống nhất Tổ quốc!” nhằm đánh đổ chế độ độc tài tay sai của đế quốc Mỹ. Trong quá trình hoạt động, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã kịp thời đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm không ngừng mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân. Đại hội lần thứ I (3-1962) quyết định nhiều chính sách lớn về đối nội và đối ngoại như vấn đề hoà bình, trung lập, dân tộc, ruộng đất, trí thức, tư sản, tôn giáo, ngoại kiều và chính sách đối với binh lính và ngụy quyền miền Nam… tạo điều kiện đoàn kết rộng rãi nhất, sẵn sàng bắt tay với những ai tán thành chống Mỹ, cứu nước.
– Ngày 20-4-1968, trên cơ sở thắng lợi và khí thế của Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1968, Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hoà bình Việt Nam ra đời với bản Cương lĩnh thích hợp nhằm đoàn kết, tranh thủ thêm tầng lớp trí thức, tư sản dân tộc tiến bộ ở thành thị nhưng chưa tham gia Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã mở rộng thêm một bước Mặt trận chống Mỹ cứu nước.
– Ngày 6-6-1969, Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam Việt Nam đã bầu ra Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Hội đồng Cố vấn.
Từ khi ra đời, Mặt trận đã làm một phần chức năng của chính quyền dân chủ nhân dân. Sau khi có Chính phủ Cách mạng lâm thời Mặt trận giữ vai trò trụ cột và làm hậu thuẫn cho chính quyền cách mạng, không ngừng đẩy mạnh hoạt động trên cả ba mặt quân sự, chính trị và ngoại giao, tiến tới cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
4. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
– Sau khi thống nhất đất nước, từ ngày 31-1 đến 4-2-1977, tại thành phố Hồ Chí Minh, Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam quyết định thống nhất 3 tổ chức Mặt trận ở hai miền lấy tên chung là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đây là Đại hội lịch sử, biểu dương thắng lợi to lớn của khối đại đoàn kết dân tộc, là cái mốc đánh dấu bước phát triển mới của Mặt trận dân tộc thống nhất trong giai đoạn mới của cách mạng. Đại hội đã thông qua chương trình chính trị và điều lệ mới nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, phát huy nhiệt tình cách mạng và tinh thần làm chủ, động viên nhân dân hăng hái tham gia xây dựng và củng cố chính quyền ở miền Nam, xây dựng Hiến pháp chung của cả nước; tổ chức bầu cử Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, hàn gắn vết thương chiến tranh, khắc phục thiên tai, phát triển kinh tế. v.v…
Để Mặt trận hoạt động ngày càng đạt hiệu quả thiết thực, khắc phục những nhận thức không đúng về Mặt trận, nhằm nêu cao vai trò tác dụng của Mặt trận trong đời sống chính trị xã hội, Chỉ thị số 17 của Ban bí thư Trung ương Đảng (khoá V), ngày 18-4-1983 về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn mới” đã chỉ rõ: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một tổ chức chính trị – xã hội rộng lớn nhất, vừa có tính chất liên hiệp rộng rãi, vừa có tính quần chúng sâu sắc. Mặt trận đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân lao động, là sợi dây nối liền các tầng lớp xã hội rộng rãi với Đảng, là chỗ dựa vững chắc của nhà nước”.
– Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ II (từ 12 đến 14-5-1983) đã thông qua Chương trình hành động và ra lời kêu gọi đồng bào chiến sĩ cả nước đoàn kết phấn đấu khắc phục khó khăn, vượt qua thử thách, góp sức cùng với Đảng và Nhà nước tìm ra những giải pháp có hiệu quả để đưa đất nước tiến lên. Chương trình hành động của Đại hội hướng mọi hoạt động của Mặt trận vào những vấn đề thiết thực, hướng về cơ sở, tới địa bàn dân cư và những vấn đề đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Mặt trận.
– Đại hội lần thứ III Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (họp từ ngày 2 đến ngày 4-11-1988) là Đại hội thực hiện công cuộc đổi mới do Đại hội VI (1986) của Đảng đề ra. Phương hướng tăng cường và đổi mới công tác Mặt trận được Đại hội nêu ra là:
+ Mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân; mở rộng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về hoạt động và về tổ chức nhằm tập hợp mọi lực lượng, mọi khả năng phấn đấu vì sự phồn vinh của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân.
+ Hướng hoạt động của Uỷ ban Mặt trận các cấp đi vào thực hiện một cách thiết thực các nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của đất nước, của địa phương, của cuộc sống, tập trung vào việc vận động nhân dân tham gia xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng chính quyền nhân dân và thực hiện các mục tiêu kinh tế -xã hội.
+ Phát huy tinh thần chủ động sáng tạo, tự lực vươn lên; ra sức khai thác mọi tiềm năng và các điều kiện thuận lợi, khắc phục khó khăn, tự đổi mới và góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới chung của đất nước.
Đại hội III Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là “sự biểu dương lực lượng to lớn của toàn dân, đoàn kết một lòng tiến hành công cuộc đổi mới” (Phát biểu của TBT Nguyễn Văn Linh tại Đại hội).
Nhiệm kỳ III của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam diễn ra trong điều kiện các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về Mặt trận ngày càng được cụ thể hóa.
Đại hội lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã bổ sung, phát triển và hoàn thiện đường lối đổi mới dựa trên sự lựa chọn duy nhất đúng đắn, là kiên trì mục tiêu và con đường xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã khẳng định “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” và xác định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị của các đoàn thể nhân dân và của cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo Mặt trận”.
Sau Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng, Nhà nước đã đẩy mạnh việc thể chế hoá vai trò, vị trí trách nhiệm của Mặt trận trên một số lĩnh vực hoạt động. Hiến pháp (sửa đổi) 1992; các đạo luật như: Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức tòa án nhân dân v.v… không những cụ thể hóa vai trò, thẩm quyền, trách nhiệm của Mặt trận trong việc tham gia phối hợp mà còn ghi rõ các cơ quan hữu quan có trách nhiệm phối hợp với Mặt trận trong khi thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Ngày 17-11-1993 Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết 07-NQ/TW về “Đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất”. Nghị quyết đã đề ra 4 chủ trương lớn đồng thời là 4 quan điểm cơ bản chỉ đạo quá trình tăng cường và mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc và tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
– Quán triệt Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị, Đại hội lần thứ IV Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (họp từ ngày 17 đến 19-8-1994) đã đề ra phương hướng tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động, của Mặt trận nhằm làm tốt hơn nữa chức năng đoàn kết dân tộc, tập hợp mọi lực lượng tán thành sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu độc lập dân tộc, chủ quyền Quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu sớm thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Đại hội IV Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã công bố Chương trình 12 điểm về “Đại đoàn kết dân tộc xây dựng và bảo vệ đất nước”. Chương trình Mặt trận chính là những định hướng về chính sách đoàn kết với mọi người Việt Nam, đối với từng giai cấp và tầng lớp xã hội nhằm đoàn kết rộng rãi mọi người Việt Nam không phân biệt quá khứ và ý thức hệ vì mục tiêu chung, xoá bỏ định kiến, mặc cảm hận thù, chân thành đoàn kết, hòa thành một khối thống nhất để chiến thắng nghèo nàn lạc hậu, đưa đất nước tiến lên trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thực hiện các nghị quyết Đại hội VIII, Đại hội IX của Đảng và chương trình Mặt trận Tổ quốc Việt Nam “Đại đoàn kết dân tộc xây dựng và bảo vệ đất nước”, các tầng lớp nhân dân ta đã đoàn kết phấn đấu vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, tiếp tục giành được những thành tựu mới trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước bước vào một thời kỳ phát triển mới; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Kỳ họp thứ V Quốc hội khoá X đã thông qua Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoạt động có hiệu quả, mở rộng về tổ chức và hoạt động, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy vị trí, vai trò của Mặt trận trong đời sống chính trị – xã hội.
Nhằm đưa Nghị quyết 07 của bộ Chính trị vào cuộc sống và cụ thể hóa Chương trình 12 điểm “Đại đoàn kết dân tộc xây dựng và bảo vệ đất nước”, Hội nghị lần thứ 2 Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (khóa IV) đã quyết định mở cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”. Ngày 3-5-1995 Ban Thường trực Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra Thông tri 04 hướng dẫn thực hiện Cuộc vận động (nay là cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”). Cuộc vận động ra đời thực sự hợp ý Đảng, lòng dân, được nhân dân các khu dân cư trên cả nước nhiệt tình hưởng ứng. Cuộc vận động đã thiết thực góp phần tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân ở khu dân cư, đổi mới công tác Mặt trận và trở thành nhiệm vụ công tác trọng tâm, thường xuyên của các cấp Mặt trận.
– Đại hội đại biểu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ V (họp từ ngày 26 đến 28-8-1999) là đại hội mà nhiệm kỳ hoạt động của Mặt trận ở trong thời điểm chuyển tiếp giữa hai thế kỷ, hai thiên niên kỷ, đánh dấu cột mốc quan trọng trong việc thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất trong thời kỳ phát triển mới của đất nước, là Đại hội phát huy tinh thần yêu nước, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tháng 10-2000 Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”. Từ đó đến nay Mặt trận Tổ quốc các cấp đã chủ động thực hiện tốt vai trò phối hợp và thống nhất hành động với các thành viên; với chính quyền, các doanh nghiệp, doanh nhân, các nhà hảo tâm; phối hợp với các cơ quan thông tấn, báo chí, các phương tiện truyền thông tăng cường tuyên truyền, động viên các điển hình cá nhân và tập thể tích cực tham gia cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”, Tháng cao điểm “Vì người nghèo” và Chương trình “Nối vòng tay lớn” hàng năm để xây dựng Quỹ “Vì người nghèo”. Góp sức cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước, vận động các cấp, các ngành, các doanh nghiệp đầu tư hỗ trợ cho 62 huyện nghèo nhất; tiếp tục xây mới, sửa chữa và trao nhà Đại đoàn kết cho các hộ nghèo, sớm xóa xong tình trạng nhà ở dột nát cho hơn 500.000 hộ nghèo trong cả nước. Đồng thời, xây dựng các công trình phúc lợi công cộng; mở rộng các hình thức cho vay, hỗ trợ các hộ nghèo về sản xuất, khám chữa bệnh và học hành, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới, hải đảo.
– Đại hội đại biểu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ VI (họp từ ngày 21-9 đến 23-9-2004) là đại hội đầu tiên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới, là sự kiện chính trị quan trọng của đất nước ta, đánh dấu một thời kỳ phát triển quan trọng của dân tộc ta: thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong xu thế hội nhập và phát triển, là Đại hội “Phát huy sức mạnh Đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Trên cơ sở các nghị quyết, các chỉ thị của Đảng qua các kỳ đại hội, Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định những quan điểm cơ bản của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất như sau:
Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
Lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài;
Xóa bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp. Tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc;
Đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội;
Đại đoàn kết toàn dân tộc là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, mà trước hết là trách nhiệm của Đảng. Đường lối đúng đắn của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước phù hợp với yêu cầu, nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của nhân dân là yếu tố quan trọng hàng đầu để khơi dậy và phát huy sức mạnh toàn dân tộc;
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của nhân dân; đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh thành hoạt động thực tiễn sinh động trong cuộc sống của nhân dân;
Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội.
– Từ quý II -2008 đến quý III – 2009, Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp tiến tới Đại hội toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ VII được tiến hành thống nhất trong toàn quốc từ cấp cơ sở lên, tạo thành đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng từ các khu dân cư, góp phần nâng cao nhận thức về sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc, về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; qua quá trình chuẩn bị và tổ chức Đại hội đã tạo thành đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong hệ thống chính trị và trong các tầng lớp nhân dân; đẩy mạnh các phong trào hành động cách mạng hướng vào mục tiêu thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của mỗi địa phương và cả nước, cùng Đảng và Nhà nước vượt qua khó khăn thách thức, kiềm chế lạm phát, ngăn chặn suy giảm, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo anh sinh xã hội và duy trì tăng trưởng kinh tế hợp lý.
Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ VII (họp từ ngày 28-9 đến 30-9-2009) được tiến hành với chủ đề: “Nâng cao vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy dân chủ, góp phần tăng cường đồng thuận xã hội vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh“. Đại hội là sự kết tinh trí tuệ, nhiệt huyết và trách nhiệm của các cấp Mặt trận, các tổ chức thành viên, của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân đối với sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội đã đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và chương trình hành động nhiệm kỳ 2009-2014 và chính thức phát động phong trào thi đua yêu nước kỷ niệm Đại lễ 1000 năm Thăng Long-Hà Nội, 80 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, 80 năm Ngày thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam và các ngày lễ lớn của đất nước, tiến tới Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ VIII vào năm 2010.
VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC NGÀY NAY.
Từ Hội phản đế đồng minh – hình thức tổ chức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, đến nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã trải qua lịch sử 80 năm xây dựng và không ngừng phát triển cùng với những chặng đường lịch sử vẻ vang của cách mạng Việt Nam. Ở mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn cách mạng, Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam có những hình thức, tên gọi khác nhau cho phù hợp với nhiệm vụ nhưng đều nhằm mục đích xây dựng, tập hợp các tầng lớp nhân dân thành một khối đoàn kết, thống nhất về ý chí và hành động, tạo thành sức mạnh dời non, lấp bể của cả dân tộc để hoàn thành những mục tiêu cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo thực hiện.
Xứng đáng với truyền thống vẻ vang của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày nay nêu cao vai trò, trách niệm của mình đối với sự nghiệp xây dựng và bảo về Tổ quốc, không ngừng đổi mới nội dung và phương thức hoạt động nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu của Đại hội lần thứ VII Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đề ra là: Tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực, tự cường; phát huy dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tạo thành sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần thực hiện thắng lợi Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, lần thứ XI; giữ vững độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Để đạt được mục tiêu trên đây, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức thành viên thống nhất hành động, quyết tâm phấn đấu thực hiện 5 nhiệm vụ cụ thể như sau:
– Tiếp tục thực hiện đa dạng hóa các hình thức vận động, tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc;
– Động viên các tầng lớp nhân dân hăng hái tham gia phong trào thi đua yêu nước, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh;
– Vận động nhân dân phát huy quyền làm chủ và giữ gìn kỷ cương, phép nước, tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch vững mạnh; nâng cao vai trò và trách nhiệm của Uỷ ban Mặt trận và các tổ chức thành viên trong việc chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội gắn với yêu cầu tăng cường sự đồng thuận xã hội;
– Mở rộng hoạt động đối ngoại nhân dân và tăng cường đoàn kết, hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trên thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại;
– Kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ, đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp.
*
* *
Kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, chúng ta càng tự hào về truyền thống yêu nước, đại đoàn kết của toàn dân tộc, là nhân tố cơ bản để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1 Hồ Chí Minh Toàn tập, NXBST tập 3, Tr.147
2 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 10/1930 theo tinh thần Chỉ thị của quốc tế Cộng sản đã thông qua luận cương chính trị và đổi tên Đảng là Đảng Cộng sản Đông Dương.
3 Hồ Chí Minh – Về Mặt trận dân tộc thống nhất, Nhà XBST Hà Nội 1972. Tr.81
4 Văn kiện Đảng 1930 – 1945 (sách đã dẫn) tập III. Tr.196
5 Hồ Chí Minh – Những sự kiện. NXB TTLL, Hà Nội 1987 Tr.85
6 Văn kiện Đảng về Mặt trận dân tộc thống nhất Tr.198 (sách đã dẫn)
7 Hồ Chí Minh: Sách đã dẫn, tr.68.
8 Văn kiện Đảng về Mặt trận Dân tộc thống nhất, tr.165