ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN
KỶ NIỆM 36 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG
MIỀN NAM, THỐNG NHẤT TỔ QUỐC
(30/4/1975-30/4/2011)
I. CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (30/4/1975 – 30/4/2011)
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta là thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, là một trong những chiến công lớn của thế kỷ 20. Đối với dân tộc ta, đây là thiên anh hùng ca bất hủ của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh; là một trong những trang sử hào hùng, vẻ vang nhất suốt mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước. Năm tháng trôi qua càng làm nổi bật tầm vóc lịch sử và ý nghĩa thời đại của thắng lợi ấy.
A. NHỮNG BƯỚC PHÁT TRIỂN CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta chính thức bắt đầu từ đầu năm 1954, kết thúc thắng lợi năm 1975, trải qua 5 giai đoạn chiến lược. Mỗi giai đoạn phản ánh từng bước phát triển lớn của cuộc kháng chiến, đánh dấu bước chuyển biến về chất của cục diện chiến tranh, cuối cùng là bước nhảy vọt lớn nhất, giành thắng lợi hoàn toàn.
1. Kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang tự vệ, tiến tới cao trào Đồng khởi, đánh bại “Chiến tranh đơn phương” của Mỹ-ngụy (1954-1960)
Đế quốc Mỹ thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam, thông qua chế độ cai trị độc tài của bọn tay sai Ngô Đình Diệm. Ta ra sức ổn định chính trị, đưa miền Bắc đi lên CNXH, làm căn cứ vững chắc cho cách mạng cả nước, nhân dân miền Nam tiến hành đấu tranh chính trị, đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, đồng thời tìm phương pháp đấu tranh thích hợp, vừa đẩy mạnh cách mạng miền Nam, vừa bảo vệ miền Bắc, bảo vệ hệ thống XHCN và hòa bình thế giới.
Ngày 20-7-1954, Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương kết thúc thắng lợi, thừa nhận về nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Vĩ tuyến 17 là ranh giới tạm thời giữa 2 miền Nam-Bắc. Nhưng đế quốc Mỹ và tay sai không cam chịu thất bại, ra sức phá hoại việc thi hành hiệp định Giơnevơ, hòng chia cắt lâu dài và xâm lược nước ta để chống phong trào giải phóng dân tộc, ngăn chặn sự phát triển của CNXH. Chúng thi hành chiến lược tố cộng, diệt cộng, ban hành Luật 10/59, lê máy chém khắp miền Nam, với nhiều thủ đoạn thâm độc, xảo quyệt, hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng và bóp ngặt ý chí chiến đấu của nhân dân ta. Cách mạng miền Nam bấy giờ gặp vô vàn khó khăn tưởng chừng không vượt qua được.
Lúc đó, phong trào cách mạng miền Nam sử dụng hình thức đấu tranh chính trị là phổ biến, chủ yếu. Đến tháng 12-1957, Hội nghị Trung ương lần thứ 13 khẳng định, nước ta tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng XHCN ở miền Bắc. Hai nhiệm vụ này đều quan trọng. Miền Bắc tiến lên CNXH có tính chất quyết định thắng lợi của cách mạng trong giai đoạn mới. Lực lượng cách mạng miền Nam là nhân tố trực tiếp quyết định thắng lợi cách mạng tại chỗ.
Thực hiện chủ trương trên, miền Bắc nhanh chóng ổn định tình hình, khắc phục hậu quả chiến tranh và hoàn thành cơ bản công cuộc cải tạo XHCN. Ở miền Nam, từ đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, chống đàn áp, khủng bố…đến chuẩn bị lực lượng đẩy mạnh cách mạng tiến lên, đã lôi cuốn 12 triệu lượt quần chúng tham gia đấu tranh chính trị có kết hợp vũ trang tự vệ ngày càng phát triển từ nông thôn đến thành thị. Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (01-1959) chỉ rõ con đường của cách mạng miền Nam là kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang để đánh đổ đế quốc, phong kiến, kịp thời đáp ứng nguyện vọng nhân dân… Toàn miền Nam dấy lên cao trào Đồng Khởi (1960) đập tan từng mảng bộ máy kiềm kẹp của ngụy quyền ở nông thôn, mở rộng vùng giải phóng, đẩy kẻ thù vào thế bị động, lúng túng. Từ cao trào Đồng Khởi, Đảng bộ miền Nam được khôi phục, đội quân tóc dài của phụ nữ Nam bộ và lực lượng vũ trang ba thứ quân ra đời. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được thành lập… Thắng lợi của phong trào Đồng Khởi đánh dấu bước phát triển mới của cách mạng miền Nam, từ thoái trào, giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tấn công làm thất bại hoàn toàn chiến lược “Chiến tranh đơn phương” của Mỹ-ngụy.
2. Đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ ở miền Nam (1961-1967)
Thất bại trong chiến lược “Chiến tranh đơn phương”, đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” bằng quân đội ngụy tay sai với tiền của, vũ khí và sự chỉ huy của Mỹ, hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng miền Nam. Cách mạng miền Nam từ khởi nghĩa từng phần phát triển lên chiến tranh cách mạng, kết hợp song song đấu tranh quân sự và chính trị, đánh địch bằng ba mũi giáp công, ba vùng chiến lược, phát huy sức mạnh to lớn của cuộc chiến tranh nhân dân ở miền Nam.
Sau cao trào Đồng Khởi, Mỹ triển khai chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”. Tăng cường ngụy quân, viện trợ, cố vấn và các phương tiện chiến tranh hiện đại, ra sức qui khu, dồn dân vào các “ấp chiến lược” để “tát nước bắt cá”, tách lực lượng cách mạng ra khỏi dân để dễ tiêu diệt.
Đầu năm 1961, phong trào đấu tranh cách mạng của mọi tầng lớp nhân dân miền Nam ngày càng dâng cao. Trước tình hình đó, Đảng ta chủ trương tiến công địch bằng cả ba mũi giáp công, phù hợp với từng vùng chiến lược đạt hiệu quả. Đã bẻ gãy nhiều cuộc hành quân càn quét có qui mô lớn của địch, tiêu biểu như trận chống càn ở Ấp Bắc (Mỹ Tho) tháng 1-1963, mở đầu sự phá sản của chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” của địch và liên tiếp gây nhiều thiệt hại cho ngụy quân, ngụy quyền. Cuối năm 1963, Mỹ buộc phải “thay ngựa giữa dòng” bằng việc phế bỏ Diệm-Nhu. Chính quyền tay sai lâm vào tình trạng khủng hoảng.
Ở miền Bắc, công cuộc xây dựng CNXH đạt nhiều thành tựu. Các mặt kinh tế, văn hóa, an ninh quốc phòng đều có bước tiến bộ. Sản lượng lương thực mỗi năm đều tăng đáng kể. Lực lượng quốc phòng được tăng cường. Nhân dân miền Bắc vừa sản xuất, vừa chiến đấu và tích cực chi viện miền Nam.
Ở miền Nam, quân dân ta tiếp tục đánh thắng nhiều trận vang dội ở Bình Giã (1-1965), Ba Gia (5-1965), Đồng Xoài (6-1965)…làm cho ngụy quyền Sài Gòn lâm vào khủng hoảng triền miên (từ 11-1963 đến 6-1965 xảy ra đảo chính hàng chục lần), ngụy quân không còn đủ sức chiến đấu; quốc sách ấp chiến lược bị phá vỡ, kế hoạch bình định không hoàn thành và chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” bị phá sản.
3. Đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ (1965-1968)
Năm 1965, đế quốc Mỹ thi hành chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa quân viễn chinh Mỹ tham chiến trên quy mô lớn ở miền Nam, đồng thời đẩy mạnh chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân ở miền Bắc. Cả nước ta trực tiếp đánh Mỹ, đưa cuộc chiến tranh nhân dân phát triển lên tầm cao ở cả hai miền.
Trước những thất bại liên tiếp, đế quốc Mỹ phải leo thang chiến tranh với bước cao nhất ở miền Nam, bằng lực lượng quân viễn chinh Mỹ, quân chư hầu và ngụy quân, trong đó quân Mỹ giữ vai trò quan trọng, không ngừng được tăng cường về số lượng và trang bị phương tiện chiến đấu. Chúng liên tục mở những cuộc tấn công lớn hòng đánh phá ác liệt miền Bắc, ngăn chặn chi viện vào miền Nam. Chúng còn tiến hành hoạt động ngoại giao xảo quyệt để lừa bịp dư luận, đe dọa các nước cô lập Việt Nam.
Đảng ta đã mở các Hội nghị Trung ương lần thứ 11 (3-1965), và lần thứ 12 (12-1965), đã sáng suốt đánh giá tình hình, động viên nhân dân cả nước, một lòng quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Ở miền Nam, ta giành thắng lợi oanh liệt từ trận đầu tiên khi quân Mỹ đổ bộ vào Núi Thành (28-5-1968), Vạn Tường (8-1965), Plây Me (11-1965), Đất Cuốc, Bầu Bàng. Tiếp theo là các chiến công vang dội trên các chiến trường Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, miền Tây Khu 5, đường 9 Nam Lào, đồng bằng Nam Bộ; tấn công vào các mục tiêu trọng yếu trong các thành phố lớn như Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế; đánh bại các cuộc phản công của Mỹ ở miền Nam và những cuộc đánh phá bằng không quân, hải quân lần thứ nhất ở miền Bắc.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Không có gì quý hơn độc lập tự do!”, cả nước sôi nổi thi đua giết giặc lập công. Các phong trào “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “Mỗi người làm việc bằng hai, vì đồng bào miền Nam ruột thịt”, “Xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước”, Thanh niên “3 sẵn sàng”, Phụ nữ “3 đảm đang”, “Tay cày tay súng, tay búa tay súng”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, đã động viên cả nước ra trận, toàn dân đánh Mỹ.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 14 (1-1968), quân và dân miền Nam mở cuộc tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân (1968), đánh vào các cơ quan đầu não của địch, giành thắng lợi ở một số thành phố lớn, hầu hết thị xã, thị trấn và vùng nông thôn. Thắng lợi của cuộc tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân làm đảo lộn chiến trường của Mỹ, làm thất bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, làm lung lay ý chí xâm lược, buộc Mỹ phải đơn phương ngừng bắn phá miền Bắc và bắt đầu đàm phán với ta tại Hội nghị Pari.
4. Đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ (1969-1972)
Qua sự kiện Tết Mậu Thân, đế quốc Mỹ triển khai chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, xuống thang, rút dần quân Mỹ về nước, nhưng kéo dài và mở rộng chiến tranh sang cả Lào và Campuchia. Quân và dân ta lại kết hợp với quân và dân hai nước Lào và Campuchia đánh Mỹ.
Đế quốc Mỹ đã thực hiện chính sách “Dùng người Việt đánh người Việt”, “Thay màu da trên xác chết”, rút dần quân Mỹ về nước, tránh tổn thất, đồng thời xoa dịu làn sóng chống chiến tranh của nhân dân Mỹ. Với tiềm lực lớn, Mỹ nhanh chóng hồi phục lực lượng, tăng cường chiến tranh ở Lào, mở rộng xâm lược Campuchia, phá căn cứ đầu não kháng chiến ở miền Nam, cắt đường hành lang vận chuyển chiến lược, gây cho ta nhiều khó khăn.
Với quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh (7-1969), “đánh cho Mỹ cút, ngụy nhào”. Bằng việc kết hợp với quân, dân Lào, Campuchia, ta giải phóng cánh đồng Chum-Xiêng Khoảng (2-1970) ở Lào và mở rộng vùng giải phóng ở Campuchia (30-4-1970). Tiếp theo là chiến thắng oanh liệt trên mặt trận Đường 9 Nam Lào, Đông Bắc Campuchia (1971). Năm 1972, ta mở cuộc tiến công chiến lược khắp chiến trường miền Nam, phá vỡ nhiều tuyến phòng thủ kiên cố của địch ở Quảng Trị, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, làm thất bại chương trình bình định nông thôn của chúng, đặc biệt đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai, đập tan cuộc tập kích chiến lược B52 trong 12 ngày đêm (18 đến 29-12-1972) vào Hà Nội, Hải Phòng và một số tỉnh ở miền Bắc. Những thắng lợi của ta đã làm thay đổi cục diện chiến tranh, kết hợp chặt chẽ “đánh và đàm”, cuối cùng buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pa ri, rút hết quân Mỹ và quân các nước chư hầu của Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam.
5. Giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973-1975)
Ngày 27-1-1973, Mỹ phải ký kết Hiệp định Pa ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, công nhận độc quyền, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ vẫn còn tiếp diễn. Đế quốc Mỹ cùng ngụy quyền chống phá Hiệp định ngày càng trắng trợn, tiếp tục lấn chiếm, bình định và điên cuồng đánh phá cách mạng với hy vọng thay đổi tình thế có lợi cho chúng.
Hội nghị lần thứ 21(7-1973), BCH Trung ương Đảng nhận định: Bất kỳ tình huống nào, con đường cách mạng miền Nam vẫn là bạo lực cách mạng, với chiến lược tiến công. Từ năm 1973 đến giữa năm 1974, quân và dân ta tiếp tục chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, liên tiếp giành thắng lợi. Chiến thắng Phước Long ngày 6-1-1975 đã khẳng định thực lực kẻ thù ngày càng suy yếu. Tiếp theo, ta giành thắng lợi hoàn toàn bằng ba đòn chiến lược: Chiến dịch giải phóng Tây Nguyên, mở đầu bằng đánh chiếm Buôn Ma Thuột; chiến dịch giải phóng Huế-Đà Nẵng, quét sạch quân địch ở ven biển Trung bộ và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng Sài Gòn, Gia Định và toàn miền Nam. Hơn một triệu quân ngụy và toàn bộ máy ngụy quyền bị đập tan, chế độ thực dân mới hoàn toàn sụp đổ, kết thúc thắng lợi hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vào ngày 30-4-1975.
Đại hội lần thứ IV của Đảng khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một số kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.
B. Ý NGHĨA THẮNG LỢI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Ý nghĩa thắng lợi
* Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta:
– Là cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại, cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc tiêu biểu của nhân dân ta. Cuộc chiến tranh với qui mô lớn nhất, lâu dài nhất, ác liệt nhất trong lịch sử và phải chống lại một đế quốc lớn mạnh nhất là đế quốc Mỹ.
– Đánh dấu bước ngoặt rất cơ bản và quyết định con đường cách mạng mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu trong Chính cương vắn tắt năm 1930- Con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
– Kế tục thắng lợi Cách mạng tháng Tám 1945, phát huy thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954), là trận đánh quyết định nhất, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ và 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc. Chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị của đế quốc và phong kiến ở nước ta. Cả dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên mới: Độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
– Đã nâng vị trí chính trị của Việt Nam lên tầm cao mới trên thế giới, là niền tự hào của mỗi người dân trong thế kỷ 20 và mãi mãi về sau.
* Đối với thế giới:
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chốngMỹ, cứu nước:
– Là thắng lợi tiêu biểu của các lực lượng cách mạng, góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng thế giới chống chủ nghĩa đế quốc.
– Là biểu tượng mới về sức mạnh của cách mạng thế giới: Kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại thì hoàn toàn có thể đánh bại mọi thế lực xâm lược, dù đó là nước đế quốc đầu sỏ.
– Là nguồn cổ vũ dân tộc hãy tin tưởng vào thắng lợi của công cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng xã hội. Thắng lợi này trực tiếp góp phần vào việc giải phóng dân tộc của nhân dân Lào và Campuchia.
– Đập tan cuộc phản kích lớn nhất vào các lực lượng cách mạng kể từ sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai của tên đế quốc đầu sỏ, phá vỡ phòng tuyến ngăn chặn CNXH ở Đông Nam Á, góp phần làm đảo lộn “chiến lược toàn cầu” phản cách mạng của Mỹ.
– Đã nêu bật chân lý: Trong thời đại ngày nay, một dân tộc nước không rộng, người không đông, kinh tế kém phát triển, song đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh kiên quyết dưới sự lãnh đạo của một Đảng Mác-Lênin, có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, thì hoàn toàn có thể đánh bại mọi thế lực xâm lược, dù đó là nước đế quốc đầu sỏ.
2. Bài học kinh nghiệm
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả tổng hợp của một loạt nhân tố. Đó là sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là sự chiến đấu dũng cảm, thông minh của toàn quân, toàn dân, là tình đoàn kết và liên minh chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương, cùng sự đồng tình ủng hộ của các lực lượng cách mạng và hòa bình trên thế giới. Từ thực tiễn của cuộc kháng chiến, rút ra một số bài học chủ yếu như sau:
2.1. Kiên định quyết tâm, quyết đánh, quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược
Quyết tâm đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược vốn là truyền thống quật cường, bất khuất của nhân dân Việt Nam. Suốt quá trình kháng chiến lâu dài, ác liệt, Đảng và nhân dân ta luôn kiên định quyết tâm đánh Mỹ cho đến thắng lợi cuối cùng. Quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ thể hiện lập trường cách mạng triệt để của giai cấp công nhân và học thuyết Mác-Lênin trong đấu tranh giành độc lập dân tộc. Nhờ có quyết tâm đó, nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn thử thách, đã động viên hàng triệu người lên đường đánh giặc, đánh giặc tại chỗ và sẵn sàng hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc.
2.1. Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ
Đó là đường lối cùng một lúc giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, tiến hành đồng thời chiến lược cách mạng ở hai miền nhằm mục tiêu chung là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là đường lối đúng đắn nhất phù hợp nguyện vọng nhân dân cả nước và xu thế thời đại. Đó là đường lối quốc tế đúng đắn, vì cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, đã nêu cao tinh thần quốc tế vô sản, đoàn kết và liên minh chiến đấu với nhân dân Lào, nhân dân Campuchia, với Liên Xô, Trung Quốc, các nước XHCN và nhân dân thế giới.
Cái mới, cái sáng tạo của đường lối chung thời chống Mỹ trong hoàn cảnh một Đảng duy nhất, thống nhất lãnh đạo một nước tạm thời chia ra làm hai miền, tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng nhằm thực hiện một mục tiêu chung. Đó là cốt lõi của đường lối chung, đồng thời là nét đặc thù nổi bật của cách mạng Việt Nam thời chống Mỹ. Cùng với đường lối, Đảng ta đề ra phương pháp tiến hành chiến tranh sáng tạo: Đánh địch không chỉ bằng quân sự mà bằng chiến lược tổng hợp quân sự, chính trị, ngoại giao, đánh địch bằng sức mạnh ở cả tiền tuyến và hậu phương, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tiến hành chiến lược tiến công một cách vững chắc, giành quyền làm chủ trọng mọi tình huống. Đây là bước phát triển cao về đường lối và nghệ thuật chiến tranh của ta so thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đồng thời cũng là bí quyết thắng lợi của một nước nhỏ chống sự xâm lược của đế quốc to.
2.3. Tổ chức lực lượng cả nước đánh giặc
Toàn dân kháng chiến chống giặc ngoại xâm là đặc điểm cơ bản của cách mạng Việt Nam. Đảng ta biết dựa vào dân, lấy dân làm gốc, tập hợp và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, để thực hiện chiến tranh nhân dân, toàn dân toàn diện. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hai chiến lược cách mạng ở hai miền, mối quan hệ giữa hai chiến lược cách mạng, thực hiện một mục tiêu chung, đã tập hợp đến mức cao nhất lực lượng nhân dân cả nước tham gia kháng chiến. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Ba mươi mốt triệu đồng bào cả nước là ba mươi mốt triệu chiến sĩ diệt Mỹ”. Như vậy, chính khối đại đoàn kết toàn dân là cơ sở vững chắc để tổ chức lực lượng cả nước đánh giặc.
2.4. Căn cứ cách mạng, hậu phương kháng chiến vững chắc
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, miền Bắc đã được giải phóng là nền tảng cho lực lượng cách mạng cả nước. Sau 10 năm, Hội nghị Trung ương lần thứ 12 (12-1965) khẳng định miền Bắc đã trở thành căn cứ địa vững chắc cho cách mạng cả nước vừa là hậu phương lớn của miền Nam. Những năm cả nước có chiến tranh ác liệt, đế quốc Mỹ đưa quân viễn chinh xâm lược miền Nam đồng thời tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, thì miền Bắc thêm nhiệm vụ là tuyền tuyến trực tiếp chiến đấu chống Mỹ. Khi phong trào Đồng Khởi phát triển ở miền Nam, vùng giải phóng được mở rộng, có căn cứ hậu cần bảo đảm đủ sức phục vụ tác chiến kịp thời, đó là hậu phương tại chỗ ở chiến trường. Ngoài ra, còn có “căn cứ lõm” của các cơ sở cách mạng trong vùng địch kiểm soát và căn cứ cách mạng của Lào và Campuchia. Qua thực tiễn kháng chiến, căn cứ cách mạng có sự phát triển mới. Có căn cứ địa-hậu phương lớn miền Bắc lại có hậu phương tại chỗ miền Nam. Nối liền căn cứ địa hai miền Nam-Bắc với căn cứ cách mạng của hai nước láng giềng là tuyến giao thông quân sự trên địa bàn Đông-Tây Trường Sơn, tạo thành hệ thống căn cứ địa phương liên hoàn. Xây dựng căn cứ địa hậu phương vững mạnh về mọi mặt, trong đó có hệ thống giao thông vận tải thông suốt, giữ được giao lưu quốc tế, đó là bài học thiết thực, sâu sắc trong kháng chiến chống Mỹ, cho ngày nay và mai sau trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
2.5. Đoàn kết liên minh với nhân dân Lào, nhân dân Campuchia
Phát huy truyền thống láng giềng anh em, kế thừa và phát triển truyền thống đoàn kết chống Pháp thắng lợi của ba dân tộc, trong kháng chiến chống Mỹ, nhân dân ta đã chủ động đoàn kết, liên minh với nhân dân Lào, nhân dân Campuchia, tạo sức mạnh tổng hợp để đánh kẻ thù. Sự liên minh đó theo nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, lợi ích và nguyện vọng chính đáng của mỗi dân tộc, cùng nhau đoàn kết, liên minh đánh thắng kẻ thù chung là đế quốc Mỹ và tay sai.
2.6. Đoàn kết quốc tế, phát huy sức mạnh thời đại
Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta ra sức tăng cường đoàn kết quốc tế, phát huy tối đa sức mạnh của thời đại, coi đó là một bộ phận hợp thành của đường lối chống Mỹ, cứu nước và đặt đường lối đối ngoại, đấu tranh ngoại giao thành một mặt trận có tầm quan trọng chiến lược, góp phần tạo nên sự vượt trội về thế lực của nhân dân ta để đánh thắng kẻ thù. Do đó, Đảng ta phát huy được những thuận lợi cơ bản như phong trào đấu tranh chống nguy cơ chiến tranh hạt nhân, bảo vệ hòa bình thế giới…, hạn chế những khó khăn, phức tạp về sự bất hòa trong phong trào cộng sản quốc tế, giữa các đảng và các nước XHCN anh em, tạo nên một mặt trận rộng lớn của nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam, ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược, kể cả đông đảo nhân dân Mỹ.
2.7. Bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, xét cho cùng là thắng lợi của con người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Đó là những kế thừa truyền thống chống ngoại xâm của một dân tộc anh hùng, đã chiến đấu hơn nửa thế kỷ để phá bỏ xiềng xích nô lệ thực dân, giành độc lập, đưa dân tộc lên ngang tầm của thời đại mới. Thực tiễn cách mạng và chiến tranh đã chứng minh: Nhân tố con người chỉ đóng vai trò quyết định thắng lợi dưới sự lãnh đạo đúng đắng của Đảng, được Đảng bồi dưỡng toàn diện thành con người mới. Đảng ta đã khơi dậy lòng yêu nước, phát triển thành chủ nghĩa yêu nước trong mỗi con người Việt Nam. Có yêu nước thì việc gì cũng làm được. Trên cơ sở chủ nghĩa yêu nước, Đảng ta đã bồi dưỡng nên chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời chống Mỹ- một hiện tượng độc đáo trong xã hội Việt Nam. Đó là chủ nghĩa anh hùng tập thể của những con người bình thường làm nên sự nghiệp phi thường, thể hiện cả một dân tộc trong cả nước chiến đấu dưới mưa bom bão đạn suốt mấy mươi năm trên mọi mặt trận, vượt lên cái chết để giành thắng lợi cuối cùng. Kinh nghiệm chứng tỏ trường kỳ kháng chiến phải trường kỳ động viên. Trong những thời kỳ cách mạng gặp khó khăn và cả khi thắng lớn, Đảng ta luôn tiến hành công tác chính trị tư tưởng thường xuyên, nhằm làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng giữ vững quyết tâm trước mọi hoàn cảnh để nâng cao lòng tin. Bên cạnh đó, công tác văn hóa cũng góp phần hình thành con người mới, tạo ra một thế hệ thanh niên dũng cảm, thông minh trong sản xuất và chiến đấu; một đội ngũ lao động trí óc, đông đảo, góp phần vào thắng lợi chung.
Tóm lại, Đảng ta đã động viên, bồi dưỡng đến mức cao nhất nhân tố con người. Và kết cục cuộc đụng đầu lịch sử với Mỹ, nhân dân ta đã chứng minh chân lý: Quyết định thắng lợi của chiến tranh có nhiều nhân tố, nhưng nhân tố cơ bản nhất là con người.
II. NHỮNG THÀNH TỰU XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC 36 NĂM QUA
1. Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội
Năm 1975, miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất bước vào xây dựng CNXH. Trong điều kiện tình hình quốc tế diễn biến phức tạp, Đảng ta lãnh đạo nhân dân thường xuyên vừa đối phó những âm mưu, những hành động của đế quốc và các thế lực thù địch, vừa xây dựng cuộc sống mới từ nền kinh tế lạc hậu, bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh, vừa làm tròn nghĩa vụ quốc tế. Qua 10 năm đầu (1975-1985) xây dựng CNXH, Đảng và nhân dân ta đạt một số thành tựu đáng kể. Đã khôi phục được nền kinh tế sau chiến tranh, xây dựng một số cơ sở vật chất quan trọng, xây dựng quan hệ sản xuất mới, thiết lập và củng cố chính quyền nhân dân trong cả nước, phát triển sự nghiệp y tế, giáo dục, văn hóa, tiến hành thắng lợi hai cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc và phía Tây Nam, bảo vệ vững chắc biên cương Tổ quốc và làm tròn nghĩa vụ quốc tế. Tuy nhiên, tình hình kinh tế- xã hội vẫn còn nhiều khó khăn thử thách.
2. Lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới
Từ thực tiễn tình hình trong nước và trên thế giới, Đảng ta đã đánh giá đúng đắn những thiếu sót trong quản lý kinh tế- xã hội và kiên quyết sửa chữa. Đại hội Đảng lần thứ VI (12-1986) đề ra đường lối đổi mới, xóa bỏ bao cấp, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, tăng cường mở cửa, hội nhập với kinh tế nước ngoài tạo nên sức mạnh mới trong sản xuất, làm tăng trưởng kinh tế nước nhà. Kết quả từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, đến nay đất nước ta không những đứng vững mà còn vượt lên, đạt những thành tựu nổi bật có ý nghĩa rất quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Vượt qua khủng hoảng kinh tế, đẩy lùi lạm phát, phá thế bao vây cấm vận, nền kinh tế nước ta đã có tích lũy và có tốc độ tăng trưởng khá cao, có sức thu hút đầu tư của nhiều nước trên thế giới. Tỷ lệ tăng trưởng GDP nhanh. Đã xây dựng được nhiều khu công nghiệp, nhà máy hiện đại như khu khai thác dầu khí Vũng Tàu, nhà máy thủy điện Hòa Bình, đường dây 500 KV Bắc- Nam, nhà máy lọc dầu Dung Quất và nhiều nhà máy sản xuất hàng tiêu dùng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân. Nông nghiệp phát triển, tổng sản lượng lương thực liên tục tăng hàng năm, nước ta trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới. Đời sống nhân dân từng bước được nâng cao. Sự nghiệp y tế, giáo dục, văn hóa có nhiều tiến bộ. Quốc phòng, an ninh được củng cố vững mạnh. Quyền làm chủ chủ nhân dân được phát huy. Vai trò lãnh đạo của Đảng được tăng cường. Quan hệ ngoại giao có bước phát triển đáng kể, Việt Nam đã đạt được những bước đi quan trọng trên con đường hội nhập với kinh tế khu vực và trên thế giới.