Thông điệp đầu năm của Thủ tướng

126
Ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, khởi động mạnh quá trình tái cấu trúc kinh tế, cắt giảm các công trình chưa cần thiết, tập trung nguồn lực cho các dự án tạo ra năng lực sản xuất… là những quyết sách của Chính phủ trong năm 2011.

VnExpress giới thiệu bài viết của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhân dịp đầu năm mới:

I. Tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế

1. Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, giai đoạn 2001 – 2010, chúng ta đã tạo được những xung lực mới cho quá trình phát triển. Mở rộng dân chủ trong kinh tế với việc ban hành và thực hiện luật doanh nghiệp, phát triển mạnh kinh tế dân doanh, đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài; cải cách hành chính mà khâu trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính; tham gia sâu rộng vào tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực, gia nhập tổ chức thương mại thế giới; nhờ đó, đã phát huy được tiềm năng và nội lực của đất nước, tranh thủ được nguồn lực từ bên ngoài, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trong 10 năm thực hiện Chiến lược 2001 – 2010, mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng khu vực và tác động tiêu cực của khủng hoảng toàn cầu, nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức và những biến động phức tạp của kinh tế thế giới, giành được những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020 đã trình bày khái quát những nét chủ yếu nhất về kết quả đạt được cũng như những bất cập, yếu kém và rút ra những bài học sâu sắc từ thực tiễn.

Thủ tướng
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Ảnh: Chinhphu.vn

2. Chúng ta bước vào thời kỳ chiến lược mới trong bối cảnh thế giới thay đổi nhanh và biến động rất khó lường. Các xu hướng nổi trội là:

(1) Sự phát triển nhảy vọt của khoa học và công nghệ; hình thành nền kinh tế tri thức; sử dụng các công nghệ tiết kiệm nguyên liệu năng lượng, thân thiện với môi trường; phát triển kinh tế xanh. Đây là động lực chủ yếu, làm thay đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu thị trường toàn cầu, thúc đẩy quá trình cải cách và tái cấu trúc kinh tế trong từng nước cũng như sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các nước. Đón nhận quá trình này một cách tự nhiên hoặc chủ động lựa chọn tuỳ thuộc vào năng lực nội sinh và chính sách của mỗi nước.

(2) Toàn cầu hóa và liên kết kinh tế ngày càng sâu rộng, thúc đẩy quá trình quốc tế hóa sản xuất và phân công lao động, hình thành mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Trong bối cảnh đó, cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt. Xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ có tính cạnh tranh cao trở thành thách thức kinh tế lớn nhất đối với nước ta trong thập kỷ tới.

(3) Vai trò ngày càng tăng của các nền kinh tế mới nổi, nhất là sự phát triển mạnh mẽ cuả Ấn Độ và Trung Quốc làm thay đổi cán cân quyền lực kinh tế – chính trị trên thế giới. Với vị thế địa chiến lược trọng yếu, ASEAN hội nhập ngày càng sâu rộng, tạo thuận lợi cho sự phát triển của các nước thành viên và khẳng định vai trò chủ đạo trong một cấu trúc khu vực đang định hình. Tuy nhiên, khu vực này cũng là nơi tiềm ẩn những nguy cơ có thể ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển của nước ta cũng như các nước trong khu vực.

Sau khủng hoảng, quá trình phục hồi kinh tế thế giới diễn ra chậm chạp và đầy mâu thuẫn; khủng hoảng nợ công lan rộng và nguy cơ của cuộc chiến tranh tiền tệ chưa phải đã được loại trừ. Trong bối cảnh đó, sự điều chỉnh chính sách của các nước, nhất là các nước lớn làm cho độ rủi ro và tính bất định tăng lên.

Song song đó, tình trạng suy thoái môi trường, biến đổi khí hậu nhất là nước biển dâng mà nước ta là một trong số ít nước chịu tác động nặng nhất, có thể là biến số lớn trong tiến trình phát triển của đất nước.

Chưa bao giờ bối cảnh quốc tế lại chi phối nhiều đến sự phát triển của nước ta với tất cả những thách thức và cơ hội to lớn như vậy. Chúng ta sẽ phải làm gì và ở vị thế nào trong sự vận động phức tạp này.

Dự thảo Chiến lược xác định các quan điểm làm căn cứ để lựa chọn mục tiêu và đề ra các định hướng phát triển cho giai đoạn 2011 – 2020 phù hợp với tình hình trong nước và bối cảnh quốc tế, bảo đảm tính thống nhất với mục tiêu dài hạn trong dự thảo Cương lĩnh.

II. Bước tiến mới về tư duy phát triển

1. Về các quan điểm phát triển

Quan điểm phát triển bền vững trong dự thảo Chiến lược lần này mang một nội hàm mới, thể hiện sự gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nhanh với phát triển bền vững, coi phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển các lĩnh vực văn hóa xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; đặt yêu cầu bảo đảm tốc độ tăng trưởng nhanh, rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước, đồng thời khắc phục tư tưởng chạy theo tốc độ mà không chú ý đúng mức đến chất lượng tăng trưởng.

Trong tiến trình đổi mới 25 năm qua, Đảng ta bắt đầu từ đổi mới kinh tế, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, nhằm giải phóng các nguồn lực của đất nước. Điều này là cần thiết và đúng đắn. Tuy nhiên, khi đổi mới kinh tế đã đạt được những thành tựu to lớn, các quan hệ kinh tế đã có sự thay đổi cơ bản, cần thiết phải tiến hành đồng thời đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị để thúc đẩy đổi mới toàn diện. Điều này thể hiện nhận thức đúng đắn của Đảng ta về bước đi và biện chứng phát triển của tiến trình đổi mới. Dự thảo Chiến lược nêu “đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Lấy việc thực hiện mục tiêu này làm tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả của quá trình đổi mới và phát triển”. Trọng tâm của đổi mới chính trị là hoàn thiện nội dung và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, gắn quyền hạn với trách nhiệm trong thực hiện chức năng lãnh đạo của các cấp ủy đảng; mở rộng dân chủ trong Đảng và trong toàn xã hội nhằm phát huy vai trò chủ động của các cơ quan nhà nước, khả năng sáng tạo to lớn của nhân dân, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước.

Chúng ta đang sống trong thời đại toàn cầu hóa mà cạnh tranh kinh tế diễn ra rất quyết liệt. Mỗi nước đều tìm cách khai thác tốt nhất các lợi thế so sánh sẵn có, chuyển lợi thế so sánh thành lợi thế cạnh tranh, đồng thời, tạo lập các lợi thế cạnh tranh mới. Tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa kinh tế là những lợi thế so sánh sẵn có, tuy rất quan trọng nhưng không phải là quyết định nhất. Thực tiễn đã khẳng định nguồn lực con người là yếu tố nội sinh năng động, quyết định lợi thế cạnh tranh dài hạn của một quốc gia. Điều này đặc biệt đúng trong điều kiện khoa học công nghệ – sản phẩm trí tuệ của con người phát triển nhảy vọt trong thời đại chúng ta. Hơn nữa, mục tiêu phát triển kinh tế xét đến cùng là vì con người, cho con người. Con người phát triển toàn diện, có đời sống vật chất ấm no, đời sống tinh thần phong phú, có năng lực trí tuệ, phát huy mọi khả năng sáng tạo trong sự nhận thức được cái tất yếu để có thể làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, vươn tới tự do. Dự thảo Chiến lược nêu quan điểm“phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”; nhấn mạnh yêu cầu nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm sự đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực phát triển đất nước.

“Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao, đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, quan điểm này nhấn mạnh yêu cầu mới, quan trọng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất phải dựa vào trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao, phản ánh xu thế khoa học, công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, còn quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải bảo đảm “phát triển nhanh hài hoà các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. Tăng tiềm lực và nâng cao hiệu quả của kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước điều tiết và định hướng nền kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng mà nòng cốt là hợp tác xã…”.

Kinh tế nhà nước không chỉ là doanh nghiệp nhà nước mà còn có các nguồn lực khác do Nhà nước sở hữu gồm ngân sách nhà nước, đất đai, tài nguyên, dự trữ quốc gia… Thông qua các chính sách phát triển và cơ chế điều tiết, phân bổ hiệu quả, các nguồn lực này sẽ là nhân tố kích hoạt, định hướng việc thực hiện chính sách cơ cấu và sự phát triển kinh tế – xã hội nói chung. Vì vậy, khi nói kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo không chỉ nói riêng nguồn lực vật chất mà phải đặt nó trong sự tác động của chính sách, khả năng sử dụng hiệu quả nguồn lực của Nhà nước và cũng không chỉ nói đến vai trò của kinh tế nhà nước trong phát triển kinh tế mà phải đặt trong tổng thể phát triển kinh tế – xã hội nói chung. Điều đó cũng đòi hỏi phải nhận thức và định vị lại nội dung hoạt động và cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước.

Cùng với việc xác định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, dự thảo Chiến lược nhấn mạnh “Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, khuyến khích phát triển các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp mà chủ yếu là các doanh nghiệp cổ phần để loại hình kinh tế này trở thành phổ biến trong nền kinh tế, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất kinh doanh và sở hữu. Hoàn thiện cơ chế chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế”.

Từ hội nhập kinh tế, các nước đang mở rộng hội nhập sang các lĩnh vực khác như là một tiến trình khách quan. Để tích cực, chủ động và nâng cao hiệu quả của tiến trình hội nhập quốc tế, chúng ta phải “Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng”. Nhấn mạnh quan điểm này là hết sức cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Tiềm lực kinh tế của đất nước, lực lượng doanh nghiệp trong nước có mạnh, nền kinh tế mới vững, vị thế trong hội nhập mới cao. Càng hội nhập có hiệu quả, chúng ta càng có điều kiện thuận lợi để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.

2. Về mục tiêu Chiến lược và các khâu đột phá

Dự thảo Chiến lược đề ra mục tiêu tổng quát “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị – xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau”.

Lấy phát triển kinh tế làm trung tâm, mục tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ thể nêu trong Dự thảo thể hiện sự thống nhất giữa kinh tế, xã hội với chính trị, quốc phòng, an ninh; gắn kết nhiệm vụ trung hạn với yêu cầu phát triển dài hạn, trở thành “Cương lĩnh thứ hai của Đảng” nhằm triển khai nhiệm vụ trong giai đoạn đầu thực hiện Cương lĩnh.

Để đạt được mục tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ thể, phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó phải chọn đúng các khâu đột phá – những khâu hiện đang là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển mà nếu giải quyết tốt các khâu này sẽ tạo ra những tiền đề giải phóng mọi tiềm năng, khai thác có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển. Dự thảo lựa chọn ba đột phá:

Một là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính. Ưu điểm của kinh tế thị trường là phân bổ nguồn lực một cách hợp lý theo tín hiệu thị trường và do đó làm tăng hiệu quả chung của nền kinh tế. Kinh tế thị trường chỉ có thể được hoàn thiện khi các yếu tố, các loại thị trường được hình thành đồng bộ trong một môi trường cạnh tranh bình đẳng. Cạnh tranh là đặc tính vốn có của kinh tế thị trường. Thông qua cạnh tranh, các doanh nghiệp buộc phải tìm cách giảm chi phí, nâng cao năng suất – yếu tố xét đến cùng quyết định thắng lợi của một phương thức sản xuất, một chế độ xã hội. Kinh tế thị trường luôn được vận hành thông qua các thể chế và thủ tục hành chính. Vì vậy, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường phải gắn với đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Mặt khác, kinh tế thị trường mà chúng ta xây dựng là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó phát triển kinh tế phải kết hợp hài hoà với phát triển các lĩnh vực văn hoá xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển. Vì vậy, Nhà nước phải có chính sách cơ cấu hợp lý, sử dụng hiệu quả các công cụ điều tiết nhằm khắc phục những mặt trái của cơ chế thị trường.

Hai là, phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Con người là chủ thể sản xuất ra mọi sản phẩm vật chất và tinh thần. Con người làm ra thể chế, phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, là lực lượng sản xuất quan trọng nhất. Vì vậy, đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân để phát triển mạnh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược. Đây vừa là yêu cầu cấp bách vừa là nhiệm vụ lâu dài. Đặt yêu cầu gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ là một nội dung mới, thể hiện tính hướng đích của phát triển nguồn nhân lực. Chỉ với nguồn nhân lực có khả năng phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất và quản lý mới tạo ra năng suất cao để phát triển nhanh và bền vững.

Ba là, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn. Kết cấu hạ tầng là “đường dẫn” cho các yếu tố sản xuất dịch chuyển và là điều kiện để phát triển văn hóa xã hội trên các vùng của đất nước. Sự yếu kém của kết cấu hạ tầng đang là cản trở lớn đến sự phát triển kinh tế – xã hội, làm tăng chi phí, giảm sức cạnh tranh, không phát huy được tác động hội tụ và lan tỏa của các yếu tố nội sinh, không khai thác được vị trí địa kinh tế nằm trong chuỗi cung toàn cầu của nước ta và là nguy cơ làm gia tăng chênh lệch về mức sống giữa các vùng của đất nước. Trong 10 năm tới, chúng ta phải huy động các nguồn lực để thực hiện khâu đột phá này.

3. Về các định hướng phát triển

Trên cơ sở các quan điểm và mục tiêu tổng quát nêu trên, dự thảo Chiến lược đề ra 12 định hướng phát triển, tạo nên một hệ thống đồng bộ các giải pháp lớn trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại như một chỉnh thể của phát triển bền vững; bảo đảm gắn kết hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Dưới đây, xin phân tích một số nội dung mới.

Có thể nói tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, phát triển các lĩnh vực xã hội hài hòa với phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường là những tư tưởng quan trọng nhất cũng là những nét mới trong tư duy phát triển.

Tái cấu trúc nền kinh tế không phải chỉ được đặt ra khi có khủng hoảng. Quá trình này diễn ra một cách tiệm tiến hoặc nhảy vọt theo sự phát triển của khoa học, công nghệ và sự dịch chuyển lợi thế cạnh tranh giữa các nước. Nội dung và nhịp độ của tái cấu trúc phụ thuộc vào tình hình cụ thể của mỗi quốc gia. Đối với nước ta, tái cấu trúc nền kinh tế phải diễn ra đồng thời trên các nội dung sau:

(1) Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc dân. Mặt khác, phải hết sức coi trọng vai trò có ý nghĩa chiến lược lâu dài của nông nghiệp trong việc ổn định xã hội, bảo đảm an ninh lương thực và cải thiện đời sống nông dân.

(2) Tái cấu trúc các ngành sản xuất và dịch vụ, trọng tâm là phát triển công nghiệp hỗ trợ và các ngành dịch vụ chất lượng cao, có giá trị gia tăng lớn, nhằm tạo ra nhiều sản phẩm có khả năng cạnh tranh để có thể tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Đồng thời, phải xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa với công nghệ cao nhằm tăng giá trị gia tăng trên một đơn vị diện tích đất; gắn kết chặt chẽ giữa áp dụng khoa học công nghệ với tổ chức sản xuất; giữa sản xuất, chế biến với phân phối trong một chuỗi giá trị, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các khâu trong chuỗi giá trị đó; giữa phát triển nông nghiệp với xây dựng nông thôn mới.

(3) Tái cấu trúc các doanh nghiệp, tiếp tục đổi mới doanh nghiệp nhà nước, phát triển mạnh kinh tế dân doanh. Song song đó, mỗi doanh nghiệp phải tự tái cấu trúc để thích ứng với sự thay đổi về công nghệ và thị trường nhằm tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả.

(4) Coi trọng hơn thị trường trong nước. Phát triển mạnh hệ thống phân phối của các doanh nghiệp nước ta trên thị trường nội địa để có thể làm chủ thị trường này, tạo cơ sở vươn xa, thâm nhập sâu vào thị trường thế giới, mở rộng thị trường xuất khẩu, khai thác có hiệu quả các thị trường có hiệp định mậu dịch tự do.

(5) Điều chỉnh cơ cấu và nâng cao hiệu quả đầu tư. Nhà nước tập trung đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực và các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội thiết yếu nhất, đồng thời đẩy mạnh huy động nguồn lực của các thành phần kinh tế cho đầu tư phát triển. Khuyến khích đầu tư vào các ngành sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, các ngành công nghiệp hỗ trợ, sử dụng công nghệ sạch. Hạn chế đầu tư vào các ngành khai thác tài nguyên, sử dụng nhiều đất, tiêu hao nhiều năng lượng; không chấp nhận những dự án đầu tư công nghệ thấp, gây ô nhiễm môi trường.

Để thực hiện các nội dung tái cấu trúc trên đây, phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng dựa vào tăng vốn đầu tư, khai thác tài nguyên và nguồn lao động chất lượng thấp sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu trên cơ sở áp dụng những thành tựu mới về khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao và kỹ năng quản lý hiện đại. Các nhân tố này liên quan chặt chẽ với nhau và tích hợp tác động, có vai trò quyết định trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng năng suất lao động và sức cạnh tranh. Trong đó, khoa học và công nghệ là động lực quyết định; con người đóng vai trò trung tâm, là chủ thể sáng tạo và sử dụng khoa học, công nghệ, thực hiện chức năng quản lý. Có kỹ năng quản lý hiện đại mới phát huy tối đa tác động của hai nhân tố trên.

Chuyển đổi mô hình tăng trưởng là đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa và cạnh tranh gay gắt nhưng không thể hành động theo ý muốn mà phải tạo ra các tiền đề và điều kiện cho quá trình chuyển đổi. Những tiền đề và điều kiện đó chính là các đột phá chiến lược. Chính vì vậy, trong thời kỳ chiến lược tới, nhất là trong những năm đầu, phải tập trung giải quyết các khâu đột phá, kết hợp hợp lý giữa tăng trưởng theo chiều rộng với tăng trưởng theo chiều sâu, theo hướng chuyển mạnh sang chiều sâu.

Tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng là công việc đòi hỏi sự nỗ lực của các ngành, các cấp, của cộng đồng doanh nghiệp. Trong đó, Nhà nước đóng vai trò mở đường và hỗ trợ còn doanh nghiệp là chủ thể, lực lượng chủ công của tiến trình này.

Văn hóa xã hội là lĩnh vực rộng lớn có nhiều nội dung gắn kết tương tác lẫn nhau, tác động mạnh đến kinh tế và mọi mặt của đời sống, đến từng con người và cả cộng đồng. Văn hóa hình thành nên hệ giá trị của một quốc gia, tạo ra bản sắc của một dân tộc, là yếu tố quan trọng trong tư duy phát triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “văn hoá soi đường cho quốc dân đi”. Dự thảo Chiến lược xác định “phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa xã hội hài hòa với phát triển kinh tế…, xử lý tốt mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một động lực phát triển”, đặt yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đây là một điểm nhấn của dự thảo Chiến lược, góp phần khắc phục những bất cập, yếu kém, tạo bước phát triển mới trên các lĩnh vực văn hoá, xã hội.

Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội cho nhân dân, đã có những văn bản quy định về một số chính sách cụ thể. Dự thảo Chiến lược lần này đã đề cập một hệ thống các quan điểm và chính sách tương đối đồng bộ và toàn diện làm cơ sở cho việc phát triển một hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội hiệu quả, bền vững.

Thể hiện nhận thức đầy đủ hơn về nguy cơ ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu và nước biển dâng đối với sự phát triển bền vững, dự thảo Chiến lược trình bày phương hướng cơ bản và các chỉ tiêu cụ thể về bảo vệ và cải thiện môi trường, nhấn mạnh yêu cầu bảo vệ môi trường trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của từng ngành, địa phương, trong từng dự án; đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường và phát triển các dịch vụ môi trường. Chủ động triển khai chương trình ứng phó với biến đổi khí hậu, nhất là nước biển dâng; tăng cường hợp tác quốc tế trong hoạt động có tính toàn cầu này.

4. Về nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước

Để thực hiện thắng lợi Chiến lược với những nội dung chủ yếu nêu trên, phải không ngừng hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Dự thảo Chiến lược đã thể hiện nhận thức sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa ba thành tố của cơ chế này trong điều kiện Đảng ta là đảng duy nhất cầm quyền và có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đảng lãnh đạo để nhân dân làm chủ, Đảng lãnh đạo chủ yếu bằng Nhà nước và thông qua Nhà nước. Trong cơ chế đó, nhân dân ủy nhiệm cho Nhà nước thực hiện quyền lực quản lý với chức năng cơ bản là tạo môi trường cho sự phát triển và phục vụ sự phát triển. Phải đặt yêu cầu tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong mối quan hệ với việc nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Dự thảo xác định các chức năng quản lý và kiến tạo phát triển của Nhà nước, mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường; đề ra các giải pháp đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý của Nhà nước; nhấn mạnh yêu cầu phát huy vai trò của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội và quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước. Cùng với việc hoàn thiện các thiết chế thực hiện dân chủ, tăng cường dân chủ trực tiếp, Dự thảo đề cao vai trò phản biện xã hội, trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước các cấp. Thông qua phản biện xã hội và trách nhiệm giải trình mà góp phần hoàn thiện chính sách và nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý.

III. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong năm đầu thực hiện chiến lược

Những quan điểm và định hướng của Chiến lược 2011 – 2020 phải được thể hiện ngay trong Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2011. Chính phủ đã báo cáo và Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm năm 2011. Nghị quyết đã nêu toàn diện mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp lớn. Sau đây là những nhiệm vụ trọng tâm của năm 2011.

1. Ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát

Chúng ta thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2011 trong bối cảnh kinh tế thế giới được dự báo tăng trưởng chậm hơn, giá cả hàng hóa tăng cao hơn năm 2010, khủng hoảng nợ công trong khu vực đồng Euro có nguy cơ lan rộng, đồng Đô la Mỹ – đồng tiền chủ yếu trong thanh toán quốc tế bị giảm giá, giá vàng tăng, làm thay đổi các kênh đầu tư, gây biến động lớn thị trường tài chính quốc tế.

Ở trong nước, năm 2010 kinh tế phục hồi và đạt tốc độ tăng trưởng khá cao (6,78%), xuất khẩu tăng nhanh (25,5%), nhập siêu chỉ còn bằng 17,3% kim ngạch xuất khẩu, thâm hụt cán cân thanh toán tổng thể giảm mạnh. Tuy nhiên, lạm phát và lãi suất tăng cao, tỷ giá biến động, gây sức ép đến ổn định kinh tế vĩ mô, sản xuất kinh doanh khó khăn và đe doạ tăng trưởng bền vững. Trước tình hình đó, năm 2011 phải tập trung sức để tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm.

Phải giảm bớt chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư; kiên quyết cắt giảm các công trình chưa thực sự cần thiết, tập trung nguồn lực cho các dự án tạo ra năng lực sản xuất và năng lực xuất khẩu mới, các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội thiết yếu, sớm đưa vào sử dụng; giảm bội chi ngân sách và thâm hụt cán cân thương mại, kiềm chế tốc độ tăng giá. Thực tiễn những năm qua, cho thấy, chính sách vĩ mô phải chuyển những thông điệp rõ ràng nhằm tạo niềm tin cho thị trường và định hướng cho sản xuất kinh doanh. Phải theo sát sự vận động của kinh tế thế giới và trong nước; nâng cao năng lực dự báo, chủ động, nhạy bén trong phản ứng chính sách; linh hoạt sử dụng phù hợp các công cụ của chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, hạn chế sử dụng các biện pháp hành chính khi không thực sự cần thiết; nâng cao hiệu quả bình ổn và điều hòa nguồn vốn giữa các tổ chức tín dụng của thị trường liên ngân hàng; kết hợp chặt chẽ chính sách tài khoá với chính sách tiền tệ để ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát. Tăng cường giám sát hoạt động của các tổ chức tín dụng, các công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư, bảo đảm kinh doanh trung thực, tuân thủ các tiêu chuẩn an toàn.

2. Khởi động mạnh mẽ quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng

Tập trung hoàn thiện thể chế, tạo lập thị trường đất đai lành mạnh trên nguyên tắc đất đai là công thổ quốc gia và là tư liệu sản xuất chủ yếu của nông dân. Nhà nước và người giao lại quyền sử dụng đất phải là những đối tượng được hưởng lợi chủ yếu từ việc chuyển giao quyền sử dụng đất. Đây là nguyên tắc cơ bản để hình thành chính sách và thị trường đất đai.

Đẩy nhanh tiến trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước. Việc đổi mới doanh nghiệp nhà nước tuy là một nội dung của tái cấu trúc doanh nghiệp nhưng lại là điều kiện để tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế – một tiêu chí của kinh tế thị trường. Phương hướng và nội dung chủ yếu của đổi mới doanh nghiệp nhà nước là đẩy mạnh cổ phần hoá và cải cách các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Các tập đoàn và tổng công ty nhà nước cần tập trung vào một số lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế quốc dân, phải chuyển từ hoạt động đa dạng sang chuyên môn hoá nhằm thực hiện chính sách cơ cấu; đẩy mạnh đổi mới và sáng tạo, nâng cao hiệu quả và tạo lập năng lực cạnh tranh dài hạn để có thể tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Điều quan trọng là phải đặt doanh nghiệp nhà nước vào môi trường cạnh tranh và quy định các chỉ tiêu chất lượng hoạt động của doanh nghiệp. Cải cách cơ chế và tổ chức nhằm nâng cao trách nhiệm và hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc và công khai kết quả kiểm toán.

Năm 2011, phải triển khai mạnh mẽ chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ, coi đây là một nội dung trọng tâm của tái cấu trúc các ngành sản xuất công nghiệp. Khẩn trương hoàn chỉnh cơ chế, chính sách phát triển và tổ chức quản lý công nghiệp hỗ trợ. Tạo sự gắn kết giữa các doanh nghiệp chế tạo với doanh nghiệp lắp ráp, các doanh nghiệp trong nước với các nhà đầu tư nước ngoài trong việc lựa chọn và phát triển công nghiệp hỗ trợ theo cụm nhóm sản phẩm trên cơ sở thị trường có sự định hướng của Nhà nước, tập trung vào một số sản phẩm cơ khí, thiết bị điện, điện tử, sản phẩm công nghệ thông tin… Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ.

Phát triển mạnh các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao, có tác động lan toả rộng như dịch vụ du lịch, dịch vụ phân phối, vận tải, dịch vụ logistics và các dịch vụ cảng biển, nhằm tận dụng vị thế địa kinh tế của nước ta trong chuỗi cung toàn cầu. Hoàn thiện cơ chế quản lý nhằm thúc đẩy dịch vụ tài chính và kinh doanh bất động sản phát triển lành mạnh. Triển khai chương trình quốc gia phát triển công nghệ thông tin, phấn đấu đến năm 2020 đưa Việt Nam thành nước mạnh về công nghệ thông tin.

Nhận thức đầy đủ hơn vai trò quan trọng có tính chiến lược của nông nghiệp trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, triển khai mạnh mẽ thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 về nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Đẩy mạnh việc thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới. Nhà nước tăng đầu tư đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội ở nông thôn, đầu tư phát triển công nghệ sinh học, công nghiệp chế biến nhằm tạo ra các sản phẩm có năng suất cao, chất lượng tốt, có khả năng cạnh tranh. Tăng cường công tác kiểm tra theo các tiêu chuẩn an toàn và vệ sinh thực phẩm từ sản xuất, chế biến, lưu thông đến tiêu dùng. Đầu tư mạnh hơn cho hệ thống bảo quản, dự trữ để giảm hao hụt, bảo đảm chất lượng hàng hóa, điều hoà cung cầu, ổn định giá cả.

3. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh và mở rộng thị trường, tập trung vào các nhiệm vụ sau đây:

Hoàn thiện cơ chế chính sách về đầu tư để huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển và nâng cao hiệu quả đầu tư; mở rộng các hình thức đầu tư theo cơ chế BOT, BT, khẩn trương ban hành quy định về hợp tác công – tư (PPP) để phát triển hệ thống giao thông, nhất là các công trình lớn. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong đầu tư, xác lập quyền sử dụng đất, thủ tục hải quan, thuế, nhằm giảm chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp.

Cải thiện khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp. Hướng mạnh hoạt động của Ngân hàng phát triển vào việc hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ; tăng nguồn kinh phí bảo lãnh tín dụng và năng lực thẩm định dự án được bảo lãnh của Ngân hàng này. Ưu tiên nguồn tín dụng cho các sản phẩm trọng điểm. Nghiên cứu việc phân bổ hạn mức tín dụng cho các khu vực doanh nghiệp theo mức đóng góp vào GDP và kim ngạch xuất khẩu.

Phát triển các dịch vụ hỗ trợ khởi nghiệp. Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường nước ngoài, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. Tăng cường kiểm tra chất lượng các mặt hàng nhập khẩu, bảo vệ người tiêu dùng và khuyến khích sản xuất trong nước. Coi trọng hơn thị trường nội địa, nhất là thị trường nông thôn. Đẩy mạnh cuộc vận động người Việt Nam dùng hàng Việt Nam.

4. Phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội, tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc

Xây dựng và triển khai có hiệu quả Chiến lược an sinh xã hội 2011 – 2020, Chương trình giảm nghèo bền vững và chương trình việc làm giai đoạn 2011 – 2015; phấn đấu để năm 2011 tỷ lệ hộ nghèo giảm 2% theo chuẩn mới; phát triển các loại hình bảo hiểm, mở rộng mạng lưới an sinh xã hội.

Hoàn thiện chính sách khám chữa bệnh, chính sách viện phí. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các bệnh viện từ nguồn vốn Nhà nước, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng bệnh viện; tăng cường đưa bác sỹ về các bệnh viện tuyến huyện và các xã, bảo đảm sự đồng bộ giữa cơ sở vật chất, trang thiết bị với đội ngũ thầy thuốc sử dụng các trang thiết bị, cải thiện chất lượng khám chữa bệnh ở các bệnh viện tuyến dưới, giảm tải cho các bệnh viện tuyến trên. Tăng cường quản lý nhà nước về thuốc chữa bệnh, về bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.

Thực hiện các giải pháp đồng bộ để nâng cao chất lượng giáo dục; tiếp tục thực hiện các đề án về giáo dục đào tạo đã được phê duyệt; coi trọng chất lượng giáo dục phổ thông trên cả hai nội dung dạy chữ và rèn luyện nhân cách, dạy làm người. Trên cơ sở bảo đảm đội ngũ giáo viên, điều kiện dạy và học để mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục đại học và cao đẳng; triển khai xây dựng một số trường đại học chất lượng cao theo chương trình hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế. Phát triển mạnh đào tạo nghề với số lượng và cơ cấu phù hợp với nhu cầu thị trường, chú trọng đào tạo nghề cho công nghiệp hỗ trợ. Phát triển nhanh thị trường công nghệ. Ban hành các chính sách khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng và đổi mới công nghệ nhằm thúc đẩy quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng.

Tiếp tục đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực, hướng mạnh vào xây dựng văn hóa trong ứng xử, bài trừ các hủ tục mê tín dị đoan, làm cho văn hóa thấm sâu vào hành vi và nếp sống của mỗi người Việt Nam.

Làm tốt công tác tuyên truyền để nâng cao ý thức của người dân và doanh nghiệp trong việc bảo vệ môi trường. Tăng cường kiểm tra, thanh tra và xử lý nghiêm những vi phạm pháp luật. Triển khai Chương trình mục tiêu và Kế hoạch hành động quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu, nhất là nước biển dâng, các chương trình nâng cấp đê biển, đê sông, các giải pháp chống ngập úng cho các thành phố lớn; ứng phó có hiệu quả với thiên tai bão lũ.

Đề cao trách nhiệm của các tổ chức Đảng và chính quyền các cấp; phát huy vai trò của Mặt trận, các đoàn thể, nhân dân và báo chí trong cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí. Thực hiện có hiệu quả các chương trình phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội; bảo đảm trật tự an toàn giao thông.

5. Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế quản lý trên nguyên tắc bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân và thúc đẩy hình thành đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường. Rà soát lại hệ thống phân cấp, bảo đảm tăng cường sự quản lý thống nhất của trung ương về quy hoạch phát triển, khai thác tối đa lợi thế so sánh theo tầm nhìn liên vùng nhằm tiết kiệm nguồn lực và bảo đảm quy mô kinh tế; đồng thời, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo và tinh thần trách nhiệm của địa phương, cơ sở. Chuẩn bị tốt việc bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân và kiện toàn chính quyền các cấp nhiệm kỳ mới theo yêu cầu xây dựng bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hiệu lực hiệu quả; lấy phục vụ nhân dân làm chức năng chủ yếu của chính quyền các cấp.

Cùng với những nhiệm vụ nêu trên, chúng ta phải luôn coi trọng và thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, đối ngoại, tạo môi trường hoà bình ổn định để phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.

Chính phủ và các Bộ ngành, địa phương phải dành sự quan tâm chỉ đạo tốt công tác chuẩn bị đón Tết Nguyên đán Tân Mão, thực hiện đồng bộ các giải pháp để bảo đảm nguồn hàng, kiểm soát giá cả, giữ vững an ninh trật tự xã hội, bảo đảm an toàn giao thông; chăm lo cho người nghèo và các đối tượng chính sách để mọi người dân đều được đón Tết vui tươi, lành mạnh, tiết kiệm.

Thời gian vừa qua, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã sôi nổi đóng góp ý kiến vào các dự thảo văn kiện trình Đại hội Đảng lần thứ XI. Chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng Đại hội sẽ đề ra một Chiến lược đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước. Tổ chức thực hiện tốt Chiến lược mà trước hết là thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm 2011 là việc làm thiết thực đưa Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đi vào cuộc sống và thực hiện điều căn dặn của Bác Hồ kính yêu trước khi Người đi xa là “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng