“Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” – Chiến thắng của sức mạnh văn hóa Việt Nam

52

Năm mươi năm đã trôi qua, nhưng chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” đã đi vào lịch sử dân tộc ta như một mốc son chói lọi, một kỳ tích của thế kỷ XX. Chiến thắng vĩ đại này là sự minh chứng hùng hồn về sức mạnh của văn hóa Việt Nam; của ý chí, bản lĩnh, khí phách; của lòng tự hào, tự tôn, tự trọng và đức hy sinh cao thượng.

Người dân Thủ đô chăm chú theo dõi tin chiến thắng qua báo chí hàng ngày và các bảng thông tin, trong những ngày Mỹ đánh phá ác liệt cuối tháng 12/1972 (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

 

Để nhận thức sâu sắc những nhân tố chính trị và tinh thần tạo nên chiến thắng oanh liệt này, hãy cùng suy ngẫm về những sự kiện lịch sử thể hiện nổi bật sức mạnh của bản lĩnh, khí phách, trí tuệ Việt Nam khi đối đầu với cuộc tập kích chiến lược có một không hai trong chiến tranh hiện đại thế kỷ XX.

ĐỐI MẶT VỚI MỘT CUỘC CHIẾN TRANH ĐIỆN TỬ HIỆN ĐẠI NHẤT CỦA MỸ TRONG THẾ KỶ XX

Đế quốc Mỹ quyết định tiến hành cuộc tập kích đường không chiến lược vào miền Bắc Việt Nam bằng B52 nhằm mục tiêu: 1) Đánh phá huỷ diệt tiềm lực kinh tế quốc phòng của miền Bắc, trọng tâm là Thủ đô Hà Nội, thành phố cảng Hải Phòng, khu gang thép Thái Nguyên… hòng hạn chế tối đa sự chi viện của miền Bắc cho cách mạng miền Nam; 2) Làm tê liệt ý chí chiến đấu, quyết chiến, quyết thắng của dân tộc Việt Nam, ép chúng ta phải chấp nhận ký Hiệp định Pari theo các điều khoản sửa đổi của họ; 3) Đe dọa phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc của nhân dân thế giới.

Theo lệnh Tổng thống Nixon, từ tháng 11/1972, Lầu Năm góc chính thức xây dựng kế hoạch cho cuộc tập kích đường không chiến lược mang tên “Cuộc hành binh Linebacker II”. Theo đó, Nhà trắng và Lầu Năm góc đã huy động một lực lượng vũ khí, kỹ thuật khổng lồ và hiện đại bậc nhất của không quân và hải quân Mỹ. Đây là cuộc huy động lực lượng tập kích đường không lớn nhất của đế quốc Mỹ kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai đến năm 1972, với gần 50% tổng số máy bay B52 nước Mỹ đang có lúc bấy giờ (193/404 chiếc); hơn 1/3 tổng số máy bay chiến thuật – cả tiêm kích và cường kích (1.077/3.041 chiếc), trong đó có một biên đội 50 chiếc F111, chưa kể hàng trăm máy bay trinh sát, máy bay gây nhiễu, máy bay tiếp dầu, máy bay chỉ huy liên lạc dẫn đường; 1/4 tổng số tàu sân bay (6/24 chiếc) và 60 tàu chiến các loại của Hạm đội 7.

Trong cuộc tập kích này, các máy bay B52 xuất phát từ 2 sân bay Guyam và Utupao (Thái Lan), các máy bay chiến thuật xuất phát từ 6 tàu sân bay trên Biển Đông và 6 sân bay trên đất Thái Lan. Cùng với đó là các căn cứ hậu cần kỹ thuật của Mỹ đóng tại Nhật Bản, Philippines. Các máy bay chiến lược và chiến thuật đều được cải tiến kỹ thuật mới nhất, có tính năng kỹ thuật tối ưu. Chẳng hạn như, hệ thống máy gây nhiễu điện tử từ xa đều được lắp trên các máy bay đặc chủng để gây nhiễu như EA6A, EB66-B-C-D-E, EC121; mỗi chiếc B52 được lắp 15 máy gây nhiễu; mỗi máy bay tiêm kích (hộ tống các B52) lắp 2 máy gây nhiễu. Theo đó, mỗi tốp B52 (3 chiếc) có 45 máy gây nhiễu, đi cùng là 45 máy bay F4 hộ tống với 90 máy gây nhiễu. Trong 12 ngày đêm tháng chạp năm 1972, trước mỗi đợt tập kích, không quân Mỹ thả sợi kim loại tạo thành “bức tường kim loại” cao từ 3km – 4km, rộng 5km – 6km, dài 40km – 70km. Đây là một “bức tường” khổng lồ nhiễu tiêu cực. Trong mỗi đợt tập kích, trên bầu trời Hà Nội, Hải Phòng luôn có một tốp 2 máy bay gây nhiễu điện tử từ xa, mỗi chiếc mang theo 25 máy gây nhiễu, liên tục gây nhiễu tích cực đối với hệ thống radar của ta. Cùng với thủ đoạn dùng B52 tập kích vào ban đêm, hệ thống máy gây nhiễu của không quân Mỹ (trong đó có gây nhiễu “giả B52”) hầu như loại trừ mọi khả năng quan sát bằng kính quang học nhìn xa của các đài quan sát dưới đất (tại trận địa pháo cao xạ), đồng thời “vô hiệu hóa” khả năng nhìn trực tiếp của các phi công MIG21 Việt Nam.

Bộ Quốc Phòng Mỹ đã coi nhiễu điện tử là niềm kiêu hãnh của nền công nghiệp Hoa Kỳ, là sức mạnh siêu phàm, “lá bùa màu nhiệm” có thể làm “mù” toàn bộ hệ thống radar – từ radar cảnh giới dẫn đường, radar tên lửa, radar pháo phòng không cho đến hệ thống thông tin liên lạc của chúng ta. Với hệ thống gây nhiễu điện tử này, Không lực Hoa Kỳ cho rằng, các pháo đài bay B52 của họ sẽ là lực lượng “tàng hình” – loại bỏ và vô hiệu hóa hoàn toàn tên lửa cũng như pháo phòng không của chúng ta.

Khái quát một số thông tin nêu trên để nhấn mạnh lại rằng, chúng ta đã đối mặt với một cuộc chiến tranh điện tử hiện đại nhất của Mỹ trong thế kỷ XX – một hình thái tổng hợp giữa yếu tố kỹ thuật của các thiết bị điện tử tối tân nhất với những thủ đoạn chiến thuật cực kỳ tinh vi và lợi hại.

CUỘC CHIẾN ĐẤU KHÔNG CÂN SỨC

Để mở màn cho “Cuộc hành binh Linebacker II”, Bộ chỉ huy Không quân Mỹ cho lực lượng cường kích bay thấp F111 và lực lượng cường kích F4, F105, A6, A7, A4 đồng loạt tấn công tất cả các sân bay của Không quân ta ở Hà Nội, Bắc Giang, Yên Bái, Hải Phòng, Thanh Hóa. Ngay sau đó, lực lượng pháo đài bay B52 tiến hành rải thảm bom hủy diệt Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương khác.

Hòng đưa Hà Nội vào trở về “thời kỳ đồ đá”, trong 12 ngày đêm, Không quân Mỹ đã rải hơn 100.000 tấn bom, phá hủy 5.400 ngôi nhà cùng hơn 100 nhà máy, xí nghiệp, trường học, bệnh viện; giết chết 2.388 dân thường, làm bị thương 1.355 người. Độ tàn bạo của cuộc rải thảm bom hủy diệt này được ví như là một “Hirosima không có bom nguyên tử”.

Xin ngược lại một số sự kiện trước khi Mỹ tiến hành “Cuộc hành binh Linebacker II”. Đó là, sau thất bại thảm hại của Mỹ ngụy ở Đường 9-Nam Lào (1971), đầu năm 1972, chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ có nguy cơ sụp đổ hoàn toàn. Để cứu vãn tình thế, ngày 6/4/1972, Tổng thống Nixon ra lệnh tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai ở miền Bắc Việt Nam với quy mô, tính chất lớn hơn, ác liệt, tàn bạo hơn so với cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (1964-1968). Mỹ sử dụng cả máy bay chiến lược B52 đánh phá các tỉnh Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hóa, Hải Phòng. Quân và dân ta đã chiến đấu kiên cường, dũng cảm đánh bại các đợt đánh phá, tập kích đường không của địch, cục diện chiến tranh chuyển hướng ngày càng có lợi cho ta.

Trước đó, ngày ngày 8/1/1972, tại Hội nghị đàm phán bốn bên ở Paris, ta đã đưa ra dự thảo Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Lúc đầu phía Mỹ đã đồng ý với bản dự thảo này. Nhưng sau khi Tổng thống Nixon thỏa hiệp được với một số nước lớn, Mỹ đã bội ước, không những không thực hiện lộ trình chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam mà còn thực hiện những thủ đoạn đánh lừa và trấn an dư luận Mỹ thông qua màn khói “Hòa bình đang ở trong tầm tay”, để đầu tháng 11/1972, sau khi có kết quả tái cử vào Nhà trắng, lập tức Tổng thống Nixon, Cố vấn Kissinger, Bộ trưởng Quốc phòng Laira, Thứ Trưởng Quốc phòng Haig và Chủ tịch Hội đồng tham mưu liên quân Moorer thông qua kế hoạch tuyệt mật: “Cuộc hành binh Linebacker II”.

Năm 1972, Bộ đội Phòng không – Không quân của ta phải đảm đương 3 nhiệm vụ rất nặng nề: Tham gia chiến đấu trong đội hình quân binh chủng hợp thành ở chiến trường phía Nam, vừa phải bảo vệ vùng giải phóng Quảng Trị và giao thông vận tải chiến lược trên địa bàn Quân khu 4 và sẵn sàng đánh trả cuộc tập kích chiến lược đường không vào Hà Nội, Hải Phòng. Vì vậy, buộc phải “dàn mỏng” lực lượng tên lửa và pháo phòng không để đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ chiến lược. Lực lượng tên lửa bảo vệ Thủ đô lúc này có 10 tiểu đoàn (sau đó bổ sung thêm một số tiểu đoàn nữa), bảo vệ Hải Phòng có 2 trung đoàn. Pháo cao xạ của Hà Nội, Hải Phòng cùng với lực lượng Phòng không của Quân khu 3, Quân khu Việt Bắc có 15 trung đoàn. Lực lượng dân quân tự vệ Hà Nội ngoài 4 trung đội pháo cao xạ 100 ly còn có gần 200 trận địa trung liên, đại liên, súng máy 12,7 ly, 14,5 ly. Máy bay tiêm kích MIG21, loại có tính năng vượt trên tầm cao của B52 có vài trung đoàn nhưng số phi công lái MIG21 có khả năng bay đêm lại không nhiều. Lực lượng radar cảnh giới dẫn đường cũng chỉ có gần 30 đại đội được bố trí khắp miền Bắc.

Từ một vài số liệu nêu trên để thấy, lực lượng của Mỹ chiếm ưu thế áp đảo cả về số lượng và kỹ thuật hiện đại tối tân so với chúng ta. Trong cuộc chiến đấu không cân sức này, quân dân Hà Nội, Hải Phòng, mà nòng cốt là lực lượng Phòng không – Không quân đã anh dũng, thông minh, sáng tạo, quyết chiến trong 12 ngày đêm lịch sử, làm nên chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không”.

LỰC LƯỢNG KHÔNG QUÂN ĐẦU TIÊN TRÊN THẾ GIỚI BẮN RƠI PHÁO ĐÀI BAY B52

Trong 12 ngày đêm “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” nói riêng, trong các cuộc chiến đấu với Không quân Hoa Kỳ nói chung, lực lượng Phòng không – Không quân của chúng ta luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Ngày 18/6/1965, Mỹ đưa 30 máy bay B52 ném bom khu căn cứ Long Xuyên của ta ở huyện Bến Cát, một tháng sau, ngày 19/7/1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh cáo quân xâm lược và chỉ thị cho quân dân ta: “Dù đế quốc Mỹ có lắm súng, nhiều tiền, dù chúng có B57, B52 hay “Bê” gì đi nữa, ta cũng đánh… mà đã đánh là nhất định thắng”. Ngày 12/6/1966, Mỹ cho B52 ném bom đèo Mụ Giạ (Quảng Bình) rồi mở rộng ra đến Vĩnh Linh, Chính ủy Quân chủng Phòng không – Không quân được Bác Hồ mời lên gặp và giao nhiệm vụ: “Máy bay B52 Mỹ đã ném bom miền Bắc. Phải tìm cách đánh cho được B52. Nhiệm vụ này Bác giao cho các chú Phòng không – Không quân”. Thực hiện nhiệm vụ Bác giao, từ năm 1966-1967, Quân chủng Phòng Không – Không quân đã cử hai đoàn cán bộ tên lửa, một đoàn cán bộ radar, một đoàn cán bộ thông tin, một đoàn cán bộ không quân vào tuyến lửa Quảng Bình, Vĩnh Linh và biên giới Việt – Lào để nghiên cứu cứu nhiễu, nghiên cứu B52, đồng thời, đưa hai trung đoàn tên lửa và một số phi đội MIG21 vào trực tiếp đánh B52 trên vùng trời Quảng Bình, Vĩnh Linh để rút kinh nghiệm.

Một nét đặc sắc trong tư tưởng chỉ đạo tác chiến trong phương án đánh trả cuộc tập kích chiến lược đường không bằng B52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng là dự báo với độ chính xác rất cao các đường bay mà B52 sử dụng để tấn công Hà Nội. Vì thế, số lượng đơn vị tên lửa, pháo phòng không, MIG21 của ta rất có hạn nhưng đã bố trí đủ lực lượng cần thiết trên từng đường bay, nhất là tạo được lực lượng mạnh, lưới lửa nhiều tầng trên các hướng chủ yếu. Từ kết quả nghiên cứu cách đánh B52 ở vùng trời Quảng Bình, Vĩnh Linh, Nghệ An và biên giới Việt – Lào, cùng những kinh nghiệm xương máu trong phương pháp “vạch nhiễu” tìm B52 của tên lửa và máy bay MIG21 trên vùng trời khu vực này, Quân chủng Phòng Không – Không quân đã tổng kết, biên soạn thành các tài liệu như: quy trình bắt B52 trong nhiễu; cách chống nhiễu thông tin; cách đánh B52 bằng tên lửa SAM2, máy bay MIG21 và pháo cao xạ 100 ly; cách đánh máy bay chiến thuật, máy bay cường kích, máy bay trinh sát thấp và máy bay ném bom điều khiển bằng tia laze; cách chống tên lửa không đối đất…

Đầu xuân năm 1968, Bác Hồ đã mời Tổng tham mưu phó QĐND Việt Nam Phùng Thế Tài, nguyên Tư lệnh Quân chủng Phòng không – Không quân lên gặp và đưa ra dự báo, nhận định: “Sớm muộn đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B52 ra ném bom Hà Nội rồi có thua mới chịu thua. Chú nên nhớ trước khi đến Bàn Môn Điếm kỳ Hiệp định đình chiến ở Triều Tiên, Mỹ đã cho không quân hủy diệt Bình Nhưỡng. Ở miền Nam, Mỹ nhất định thua nhưng nó chỉ chịu thua trên bầu trời Hà Nội”.

Sau chỉ thị của Bác, một Kế hoạch đặc biệt quan trọng mang tên “Phương án đánh trả cuộc tập kích chiến lược đường không bằng B52 của Mỹ, bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng” của Quân chủng Phòng không – Không quân được ra đời ngày 27/2/1968. Từ những gợi mở của Bản kế hoạch này, kết hợp với những thông tin quý giá và kinh nghiệm xương máu của các đơn vị quân báo, radar, tên lửa, cao xạ, không quân, thông tin, hậu cần, kỹ thuật, Quân chủng Phòng không – Không quân đã liên tục bổ sung, phát triển thành các phương án đánh B52. “Phương án tháng 11/1972” là bản kế hoạch đánh B52 hoàn chỉnh nhất đã được Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng ký duyệt ngày 24/11/1972.

Có thể nói, “Phương án tháng 11/1972” là sự kết tinh bản lĩnh, khí phách, trí tuệ của Đảng vĩ đại, Bác Hồ kính yêu, Quân đội Anh hùng, Quân chủng Phòng không – Không quân Anh hùng.

Từ cuối tháng 11 đến nửa đầu tháng 12, “Phương án tháng 11/1972” đã được cụ thể hóa thành kế hoạch chiến đấu của các binh chủng radar, tên lửa, cao xạ, không quân…; được tổ chức luyện tập chu đáo, xử lý thành thạo những tình huống đặt ra.

10h30 ngày 17/12/1972, theo lệnh của Bộ Tổng tham mưu, toàn bộ lực lượng của Quân chủng Phòng không – Không quân cùng lực lượng dân quân tự vệ của Hà Nội, Hải Phòng… vào tư thế sẵn sàng chiến đấu cao nhất. Quân dân Hà Nội, Hải Phòng… đã thực sự chủ động đi vào chiến dịch lịch sử 12 ngày đêm tháng chạp năm 1972.

Đêm 18/12, Binh chủng radar cảnh giới dẫn đường đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ canh trời Tổ quốc. 19h, Đại đội 16 radar phát hiện có nhiễu B52, kíp Trắc thủ trực ban của Đại đội đã kịp thời thông báo những tọa độ đầu tiên của B52 khi còn đang bay lên phía thượng Lào. 19h45’, Đại đội 45 radar, do Đại đội trưởng Đinh Hữu Thuần chỉ huy báo cáo: “B52 đang bay vào Hà Nội”. Khi tốp B52 đầu tiên còn cách Hà Nội 300km, toàn bộ lực lượng của Quân chủng Phòng không – Không quân vào tư thế sẵn sàng chiến đấu cấp I. 22h20’, thực hiện lệnh của Tiểu đoàn trường D59.E261, sĩ quan điều khiển Dương Văn Thuận đã ấn nút phóng quả đạn tên lửa mang số hiệu C202A vạch trời đêm, bay trúng đích, hạ tại chỗ chiếc B52-G xuất phát từ Guam, rơi xuống địa phận Phù Lỗ, Đông Anh, Hà Nội. Đây là chiếc B52 đầu tiên bị bắn rơi tại chỗ của chiến dịch, cũng là chiến công đầu, ngay trong ngày đầu của quân dân Thủ đô Anh hùng. Đêm đầu tiên của chiến dịch, quân dân ta lập công vang dội: Bắn rơi 3 pháo đài bay B52, bắt sống 7 giặc lái.

Trong 12 ngày đêm của chiến dịch lịch sử, Binh chủng tên lửa lập chiến công cao nhất: Bắn rơi 36 trên tổng số 81 máy bay các loại, trong đó bắn rơi 29 máy bay B52 trên tổng số 34 máy bay B52 bị bắn rơi. Tất cả 16 máy bay B52 bị bắn rơi tại chỗ đều là chiến công của Bộ đội tên lửa anh hùng. (Các Tiểu đoàn tên lửa anh hùng bắn rơi tại chỗ 16 B52 là: Tiểu đoàn 77 bắn rơi 4 B52 có 3 B52 rơi tại chỗ. Tiểu đoàn 57 bắn rơi 4 B52 có 2 B52 rơi tại chỗ. Tiểu đoàn 78 bắn rơi 3 B52 có 2 B52 rơi tại chỗ. Tiểu đoàn 93 bắn rơi 3 B52 có 3 B52 rơi tại chỗ. Tiểu đoàn 59 bắn rơi 3 B52 có 1 B52 rơi tại chỗ. Tiểu đoàn 72 bắn rơi 1 B52 rơi tại hồ Hữu Tiệp, quận Ba Đình Hà Nội).

Trong 12 ngày đêm của chiến dịch, các cán bộ, chiến sỹ tên lửa đã sáng tạo những cách đánh đầy bản lĩnh và khí phách tiến công, thông minh sáng tạo để xử lý mọi thủ đoạn gây nhiễu, “gạt” được các tên lửa không đối đất sơrai, “tách” được nhiều B52 giả, tiết kiệm tên lửa, nâng cao hiệu quả tiêu diệt B52. Các chiến sỹ lái xe chở tên lửa đã vượt qua bom đạn cung cấp đạn kịp thời cho các trận địa tên lửa. Các chiến sỹ của các Tiểu đoàn 5 – tiểu đoàn lắp ráp, nạp nhiên liệu cho tên lửa đã sáng tạo nên những sáng kiến khôi phục hàng nghìn quả tên lửa “quá đát”. Có những chiến sỹ chấp nhận nhiễm độc của nhiên liệu tên lửa nhằm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ này.

Bộ đội Không quân đã dũng cảm, thông minh, sáng tạo, khắc phục vô vàn khó khăn, vượt qua gian khổ, hy sinh như: máy bay trinh sát địch dò tìm vị trí máy bay ta thì ta có lúc phải dùng trực thăng cẩu MIG21 đi cất dấu nơi xa, tối đến lại “đem trả” về sân bay để cất cánh chiến đấu. Địch đánh hỏng đường băng chính, ta dùng đường băng phụ. Đường băng phụ hỏng ta dùng đường lăn. Đường lăn hỏng ta cất cánh từ các sân bay dã chiến vòng ngoài. Thực hiện nghiêm khẩu hiệu: “Địch phá, ta sửa, ta bay”. Mỗi lần đường băng bị bắn phá, công binh phối hợp với nhân dân địa phương lập tức san lấp, sửa chữa đường băng cho máy bay cất cánh.

Để đối phó với số lượng máy bay của địch nhiều, không quân ta đánh du kích, dùng tốp nhỏ, chiếc lẻ với khẩu hiệu: “Một người, một máy bay vẫn tấn công”, bất ngờ đột kích, vượt qua hàng đàn máy bay hộ tống tiếp cận phía điểm yếu của B52 phóng tên lửa K13 tiêu diệt địch.

Không quân nhân dân Việt Nam là lực lượng không quân đầu tiên trên thế giới bắn rơi pháo đài bay B52 của Mỹ.

Bộ đội pháo cao xạ được giao nhiệm vụ chủ yếu đánh máy bay chiến thuật để trực tiếp bảo vệ các mục tiêu – nhất là các trận địa tên lửa, sân bay. Nhờ bố trí đón lõng và cảnh giới tốt, nên các đơn vị cao xạ tầm thấp đã bắn rơi tại chỗ 5 máy bay cánh cụp cánh xòe F111 trong tổng số 48 chiếc được huy động trong chiến dịch. Các đơn vị pháo trung cao 100ly, trong 2 đêm 24 và 26/12 đã bắn rơi 3 máy bay B52.

Bộ đội cao xạ trong chiến dịch lịch sử đã bám trụ kiên cường, lập công xuất sắc bắn rơi 39 máy bay trên tổng số 81 chiếc (48%) góp phần trực tiếp bảo vệ các mục tiêu – nhất là các cơ quan lãnh đạo, nhà máy, bệnh viện, đơn vị tên lửa, sân bay.

Trong hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc, chưa bao giờ họ chịu tổn thất nặng nề như trong 12 ngày đêm đánh vào Hà Nội, Hải Phòng… với 81 máy bay các loại bị bắn rơi, trong đó có 34 chiếc B52.

Chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” là đài vinh quang chói lọi, là sự minh chứng hùng hồn cho sức mạnh của văn hóa Việt Nam – sức mạnh của sự kết hợp hài hòa các yếu tố cách mạng và khoa học, giữa bản lĩnh vững vàng, khí phách tiến công, quyết đánh với trí tuệ biết đánh thắng, giữa tinh thần lạc quan tin tưởng với đức hy sinh cao thượng. Việc trân trọng, giữ gìn, phát huy mạnh mẽ các giá trị tinh thần này sẽ tạo động lực to lớn để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN; hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.

PGS. TS. ĐÀO DUY QUÁT
Nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương;
Nguyên Phó Trưởng phòng Tuyên huấn Quân chủng Phòng không – Không quân;
Nguyên Phó Chính ủy, Chủ nhiệm Chính trị Trung đoàn Tên lửa Volga 277.

 

https://tuyengiao.vn/van-hoa-xa-hoi/van-hoa/ha-noi-dien-bien-phu-tren-khong-chien-thang-cua-suc-manh-van-hoa-viet-nam-142643