Trở thành người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc nhận thức được trách nhiệm to lớn của mình là phải mang toàn bộ khả năng và sức lực góp phần cùng Đảng Cộng sản Pháp quan tâm hơn nữa đến các dân tộc thuộc địa, bằng một kế hoạch hoạt động chính xác, một chính sách có hiệu quả và thiết thực. Từ đây, bắt đầu một thời kỳ hoạt động sôi nổi của Người trên các lĩnh vực, đặc biệt là các diễn đàn, các đại hội quốc tế và trên báo chí, nhằm lên án tội ác của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa, thức tỉnh nhân dân các nước thuộc địa, hướng họ vào cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do.
Đánh giá cao sức mạnh của nhân dân thuộc địa và vai trò của những người cộng sản trong việc tập hợp và tổ chức quần chúng đấu tranh để giành độc lập dân tộc, trong hai bài Đông Dương, đăng trên tạp chí La Revue Communiste, số 14 (4-1921) và số 15 (5-1921) Nguyễn Ái Quốc khẳng định:
“Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến. Bộ phận ưu tú có nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời cơ đó mau đến.
Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”(1).
Đồng thời, Người nhấn mạnh vai trò của cách mạng thuộc địa trong sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản thế giới. Theo Người:
“Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”(2).
Sau ngày 14-7-1921, Nguyễn Ái Quốc rời số 6, Vila đờ Gôbơlanh đến ở trong căn phòng rộng 9 m2, gác 2, nhà số 9, ngõ Côngpoanh, quận 17, Pari. Mặc dù chật hẹp, nhưng nơi đây đã trở thành một trung tâm mới, thu hút những người Việt Nam yêu nước.
Sống chủ yếu bằng nghề in phóng ảnh, nhưng do việc làm không ổn định, giá sinh hoạt lại đắt đỏ, nên cuộc sống của Nguyễn Ái Quốc gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt, từ khi thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pháp ký tên vào bản Yêu sách 8 điểm, do có sự can thiệp của cơ quan an ninh Pháp đối với những chủ hiệu đã thuê Nguyễn Ái Quốc, nên sự tìm kiếm việc làm của Người càng khó khăn hơn. Để chống lại những đêm mùa đông giá rét, Nguyễn Ái Quốc dùng hơi ấm từ viên gạch (để nhờ cạnh bếp lò của người chủ nhà khi đi làm), đến tối về, bọc báo, để xuống giường cho đỡ lạnh. Nguyễn Ái Quốc thường chỉ đi làm buổi sáng, buổi chiều Người đến thư viện, hoặc đi dự các buổi míttinh, các buổi nói chuyện chính trị để nâng cao hiểu biết. Tại các buổi míttinh, các buổi sinh hoạt chính trị, Nguyễn Ái Quốc cũng tham gia phát biểu ý kiến, tranh luận và Người thường khéo léo lái sang vấn đề thuộc địa, nhằm lên án chủ nghĩa thực dân.
Ngày 12-12-1921, Nguyễn Ái Quốc dự Đại hội Đảng bộ quận Xen (Seine), nơi Người cư trú và được bầu là đại biểu chính thức dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I Đảng Cộng sản Pháp, họp từ ngày 25 đến 30-12-1921 tại Mácxây. Đại hội bầu Nguyễn Ái Quốc làm phụ tá của Chủ tịch Đại hội. Nguyễn Ái Quốc phát biểu cám ơn các đại biểu đã quan tâm đến những người bản xứ, qua đó Người khẳng định:
“Chỉ có trong chủ nghĩa cộng sản người ta mới thấy tình hữu ái thực sự và quyền bình đẳng, và cũng chỉ có nó chúng ta mới có thể thực hiện sự hoà hợp và hạnh phúc ở chính quốc và ở các thuộc địa” (3).
Với những hoạt động tích cực tại đại hội, chiều ngày 29-12-1921, Nguyễn Ái Quốc được mời trình bày dự thảo Nghị quyết về chủ nghĩa cộng sản và các thuộc địa – văn kiện mà Người tham gia chuẩn bị. Người nhấn mạnh:
“Nhưng điều mà người ta có thể trông đợi ở Đại hội Mácxây, trước hết là đại hội tán thành nguyên tắc thành lập một cơ quan đặc biệt phụ trách chính sách về thuộc địa của Đảng, tiếp đó là uỷ quyền cho Ban lãnh đạo thấy rõ: 1. Tiếp tục và mở rộng nhiệm vụ chuẩn bị đã được khởi đầu. 2. Trình bày ở đại hội sau của Đảng một luận cương về thuộc địa đã được nghiên cứu nghiêm túc để đại hội thảo luận đến nơi đến chốn sao cho từ đó Đảng có một chính sách thuộc địa rõ ràng, có phương pháp và thiết thực”(4).
Sau đại hội, Nguyễn Ái Quốc đề nghị Ban lãnh đạo Đảng thành lập Ban Nghiên cứu thuộc địa, có nhiệm vụ giúp Đảng cập nhật thông tin về tình hình các thuộc địa, đề xuất các chính sách đấu tranh với giai cấp tư sản và bọn thực dân, thiết thực giúp đỡ và phối hợp đấu tranh với các dân tộc thuộc địa, v.v.. Ý kiến này được chấp thuận và Nguyễn Ái Quốc được chỉ định tham gia ban đó. o:p>
Tiếp đó, Nguyễn Ái Quốc lại được cử đi dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II Đảng Cộng sản Pháp, họp ở Pari, từ ngày 21 đến ngày 24-10-1922. Tại đại hội này, vấn đề thuộc địa vẫn không có trong chương trình nghị sự. Trên diễn đàn của đại hội, Nguyễn Ái Quốc lên tiếng phê bình Đảng Cộng sản Pháp chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề thuộc địa. Theo đề nghị tích cực của Nguyễn Ái Quốc, Đại hội biểu quyết thông qua: Lời kêu gọi những người bản xứ ở các thuộc địa do Ban Nghiên cứu thuộc địa đệ trình, trong đó nhấn mạnh:
“Vì hoà bình thế giới, vì tự do và sự no ấm của mọi người, những người bị bóc lột thuộc mọi nòi giống, chúng ta hãy đoàn kết lại và đấu tranh chống bọn áp bức” (5).
Sau đó, i>Lời kêu gọi đã được viết rút gọn bằng tiếng Việt, in thành truyền đơn và bí mật gửi về Việt Nam.
Những hoạt động tích cực, có hiệu quả của Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội lần I và Đại hội II của Đảng Cộng sản Pháp đã góp phần đánh dấu một bước tiến mới trong nhận thức và trong hoạt động của Đảng Cộng sản Pháp về vấn đề thuộc địa, đồng thời thúc đẩy Đảng Cộng sản Pháp đi đúng tư tưởng chỉ đạo của Lênin về vấn đề thuộc địa.
Thời kỳ này, Nguyễn Ái Quốc tham gia sinh hoạt câu lạc bộ Phôbua, do Lêo Pônđét (Léo Poldes), một trí thức tiến bộ Pháp sáng lập và lãnh đạo, với nhiều nội dung phong phú và bổ ích. Nguyễn Ái Quốc tham dự khá đều đặn các chương trình, sinh hoạt của câu lạc bộ và tham gia Hội nghệ thuật và khoa học, Hội những người bạn của nghệ thuật, Hội du lịch, để có điều kiện đi tham quan các bảo tàng, nhà máy, phòng thí nghiệm, xưởng nghệ thuật và nhiều nơi ở Italia, Thụy Sĩ, Đức, để có điều kiện khảo sát thực tế và tăng thêm sự hiểu biết. Câu lạc bộ Phôbua, nơi Người thường xuyên tham gia sinh hoạt đã tổ chức trình diễn vở kịch Con rồng tre do Người sáng tác, nhằm đả kích ông vua bù nhìn Khải Định, khi ông ta sang Pháp dự Hội chợ thuộc địa tại Mácxây (6-1922).
Tham gia đều đặn các buổi sinh hoạt và các hoạt động ngoại khoá của câu lạc bộ Phôbua, nhận thức chính trị và xã hội của Nguyễn Ái Quốc ngày một nâng cao. Từ những hoạt động phong phú đó, Người có điều kiện hiểu sâu sắc hơn về đời sống chính trị, xã hội, về tổ chức bộ máy của Nhà nước Pháp, về cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản Pháp và những bất công trong lòng xã hội Pháp. Đồng thời Người nhận thức rõ hơn về con đường, mục tiêu và những phương thức để đấu tranh giải phóng của nhân dân ở các thuộc địa. Từ Thủ đô nước Pháp, Người đã từng bước vạch trần những tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp trên nhiều báo và tạp chí.
Sau khi tiếp thuSơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã hướng các hoạt động cụ thể của mình vào mục tiêu lên án chủ nghĩa thực dân. Với nhiều bài viết, bằng thể loại khác nhau đăng trên các báo Nhân đạo (L’Humanité), Đời sống công nhân (La Vie Ouvrière),tạp chí Cộng sản (La Revue Communiste), v.v., Nguyễn Ái Quốc tập trung tố cáo:
– Nền khai hoá giết người, tố cáo sự phung phí tiền của, sự bóc lột nhân dân thuộc địa của bọn thực dân, đặc biệt là bộ mặt gian ác của những viên quan thực dân tiêu biểu như A. Xarô (Bộ trưởng Bộ Thuộc địa), Bôđoanh (con rể A. Xarô), M. Lông, Utơrây… những viên quan cai trị khét tiếng tàn ác.
– Kêu gọi các đảng cộng sản ở chính quốc phải giúp đỡ các phong trào đấu tranh giải phóng ở các thuộc địa, bởi theo Người thì: “trong các thuộc địa, công nhân đã bắt đầu hiểu thế nào là đấu tranh giai cấp” (6), song thực tế “tình trạng thờ ơ của giai cấp vô sản chính quốc đối với các thuộc địa” vẫn tồn tại. Vì vậy, công nhân ở các nước chính quốc cần phải giúp đỡ một cách tích cực nhất phong trào giải phóng của các nước phụ thuộc, theo đúng những lời dạy của Lênin.
– Phân tích những điều kiện và chỉ rõ chủ nghĩa cộng sản có thể thực hiện được ở châu Á, đặc biệt là cách mạng thuộc địa có thể giành thắng lợi trước, không hoàn toàn phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Từ đó, nhân dân thuộc địa có thể đóng góp sức mình, giúp đỡ những người anh em phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn.
Cũng trong những năm tháng hoạt động ở Thủ đô Pari – trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của nước Pháp, Nguyễn Ái Quốc có điều kiện hấp thụ đời sống văn hoá Pháp để làm giàu cho vốn văn hoá của mình. Người tìm thấy trong văn hoá Pháp, trong nền triết học ánh sáng Pháp, tâm hồn Pháp tinh thần Tự do, Bình đẳng, Bác ái của truyền thống văn hoá Pháp và những tinh hoa văn hoá nhân đạo và dân chủ của phương Tây. Với trí tuệ mẫn cảm và vốn văn hoá sâu rộng của mình, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, đỉnh cao và kết tinh của thành tựu văn hoá nhân loại, để trở thành một nhà hoạt động và sáng tạo văn hoá kiệt xuất của dân tộc Việt Nam.
Để có thể thúc đẩy sự nghiệp cách mạng của nhân dân các thuộc địa, để có một bộ tham mưu tổ chức và lãnh đạo thống nhất cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc ở các thuộc địa, được sự đồng tình và ủng hộ của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã cùng với đại biểu thuộc địa của Pháp đứng ra vận động thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa – một hình thức mặt trận của các dân tộc bị chủ nghĩa thực dân Pháp thống trị, liên minh với giai cấp vô sản ở chính quốc cùng đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Hội Liên hiệp thuộc địa là một hiện tượng có một không hai trong lịch sử, đó là một liên minh chống chủ nghĩa thực dân ra đời và hoạt động ngay tại chính trung tâm chính trị của nước Pháp thực dân.
Sau nhiều lần gặp gỡ trao đổi, cuộc họp ngày 26-6-1921 của các chiến sĩ chống chủ nghĩa thực dân Pháp ở nhiều nước đang sinh sống ở Pari đã bàn việc thành lập hội, xây dựng chương trình, điều lệ và cử Ban Chấp hành. Ngày 20-7-1921, Ban Chấp hành hội đã thông qua các văn bản và nộp Điều lệ hội cho nhà chức trách. Cuộc họp ngày 28-5-1922 thông qua Tuyên ngôn của hội do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và nhấn mạnh:
“Chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em. Hội Liên hiệp thuộc địa thành lập chính là để giúp đỡ anh em trong công cuộc ấy… Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại” (7).
Từ những hoạt động và đóng góp của mình, Người đã được bầu vào Ban Chấp hành Hội Liên hiệp thuộc địa. Thời gian đầu (1922-1923), Hội Liên hiệp thuộc địa có khoảng 200 hội viên, hoạt động mạnh mẽ, sôi nổi và có ảnh hưởng rộng rãi. Hội những người Việt Nam yêu nước là một đoàn thể trong Hội Liên hiệp thuộc địa. Tuy nhiên, thời gian sau, do nhiều nguyên nhân tác động như sự cản trở và phá hoại của Bộ Thuộc địa, sự eo hẹp về tài chính… hoạt động của Hội giảm dần. Đến tháng 6-1926, Hội Liên hiệp thuộc địa ngừng hoạt động. o:p>
Hội Liên hiệp thuộc địa xuất bản báo Người cùng khổ(Le Paria) làm cơ quan ngôn luận. Nguyễn Ái Quốc được phân công làm chủ nhiệm, kiêm chủ bút của tờ báo.Le Paria số 1, ngày 11-4-1922, đăng lời kêu gọi, nêu rõ tôn chỉ, mục đích và nhấn mạnh:
“Le Paria đã sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu, mục đích của báo chắc chắn sẽ đạt được: đó là giải phóng loài người” (8).
Từ khi ra đời đến khi đình bản, báo i>Người cùng khổ ra được 38 số, trong những điều kiện hết sức khó khăn về tài chính và phương tiện hoạt động, lại luôn bị cảnh sát theo dõi, đe dọa, gây khó dễ. Nguyễn Ái Quốc là một trong những người lãnh đạo chủ chốt của báo, Người làm chủ nhiệm, chủ bút, giữ quỹ và kiêm cả việc phát hành, bán báo. Làm việc không mệt mỏi, Nguyễn Ái Quốc đóng góp cho sự tồn tại và phát triển của báo bằng cách viết nhiều bài cho báo, thậm chí còn dành cả phần tài chính eo hẹp của mình cho báo.
Nguyễn Ái Quốc phụ trách tờ báo từ số 1 đến số 15 (6-1923). Trước khi rời Pháp đi Liên Xô, Người viết bài để lại cho các số sau. Trong thời gian này, Người viết 30 bài. Những bức tranh, ký họa của Người đăng trên báo ký tên Nguyễn Ái Quốc và một số bút danh khác. Nội dung các bài viết này tập trung vạch trần tội ác của chủ nghĩa thực dân trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội đối với nhân dân Việt Nam, nhân dân Đông Dương và các thuộc địa khác. Từ đó, giúp người đọc nhận thức rõ hơn về sự tàn bạo của chủ nghĩa thực dân nói chung và thực dân Pháp nói riêng; về mâu thuẫn không thể điều hoà giữa chủ nghĩa thực dân với nhân dân lao động tại các thuộc địa; về mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và chính quốc. Cũng từ những bài báo đó, Nguyễn Ái Quốc đã góp phần truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào công nhân ở các thuộc địa, thức tỉnh phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Đồng thời, thông qua nội dung các bài báo, Người bước đầu chỉ ra yêu cầu cần thiết của việc thực hiện đoàn kết giai cấp và đoàn kết quốc tế, giữa nhân dân các thuộc địa, giữa thuộc địa với chính quốc và coi đó là những điều kiện bảo đảm cho cuộc đấu tranh đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Thời kỳ này, Nguyễn Ái Quốc đã vận động Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pháp ra báo Việt Nam hồn. Nhưng do Người rời Pháp đi Liên Xô nên dự định ra báo này chưa kịp thực hiện. Sau đó, báo Việt Nam hồn ra đời vào tháng 1-1926, dưới sự chỉ đạo của cụ Nguyễn Thế Truyền.
Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc tại Pháp thông qua những đóng góp của Người tại Đại hội I và II của Đảng Cộng sản Pháp, tại Hội Liên hiệp thuộc địa cùng với việc xuất bản báo Người cùng khổ được Đảng Cộng sản Pháp đánh giá cao. Uy tín và vai trò của người cộng sản Đông Dương đã được Quốc tế Cộng sản biết đến và Người được Đảng Cộng sản pháp cử đi Mátxcơva (Liên Xô) dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản.
Ngày 13-6-1923, từ ga Đuy No (Du Nord), Nguyễn Ái Quốc rời Pari bằng tàu hoả đến Béclin (Đức). Từ Hămbuốc (Đức), Người đi tàu thuỷ đến Pêtơrôgrát (Liên Xô), quê hương của Cách mạng Tháng Mười (30-6-1923). Ít ngày sau, Người đi xe lửa về Mátxcơva, bắt đầu một thời kỳ hoạt động, học tập và nghiên cứu về chủ nghĩa Mác – Lênin, về chế độ xã hội chủ nghĩa ngay trên đất nước của Lênin vĩ đại.
Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô, khi Liên Xô đang thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Liên Xô. Được ít ngày, tháng 7-1923, Nguyễn Ái Quốc gửi thư cho Trung ương Đảng Cộng sản Pháp, nêu lại ý nghĩa và tác dụng của Nghị quyết Đại hội II Quốc tế Cộng sản về vấn đề thuộc địa, đồng thời llưu ý Đảng Cộng sản Pháp vẫn chưa coi trọng vấn đề thuộc địa trong các chương trình hành động của mình. Theo Người, những người dân thuộc địa:
“Những người bị áp bức khốn khổ thấy chúng ta chỉ luôn luôn hứa hẹn nhưng cũng luôn luôn không hành động gì thì bắt đầu tự hỏi rằng không biết thực ra chúng ta là những người đứng đắn hay là những kẻ lừa phỉnh” (9).
Cũng trong bức thư này, Người đề xuất với Đảng 8 nhiệm vụ cụ thể cần được triển khai ngay, nhằm thực hiện tốt Nghị quyết của Đại hội II Quốc tế Cộng sản về vấn đề thuộc địa.i>
Tháng 6-1923, theo sáng kiến và đề nghị của đồng chí Đôm Ban (Thomas Dombal), Quốc tế Cộng sản đã ủng hộ việc thành lập một tổ chức nông dân quốc tế, nhằm thực hiện liên minh công – nông trên phạm vi toàn thế giới. Tháng 10-1923, Hội nghị lần thứ nhất Quốc tế Nông dân được triệu tập, gồm 158 đại biểu, trong đó có 122 đại biểu chính thức, đại diện cho nông dân của 40 nước trên thế giới. Nguyễn Ái Quốc được mời tham dự hội nghị với tư cách là đại biểu chính thức của nông dân Đông Dương.
TTại phiên họp đầu tiên, hội nghị đã bầu Nguyễn Ái Quốc vào Đoàn Chủ tịch, gồm 11 người. Nguyễn Ái Quốc là đại biểu duy nhất của nông dân thuộc địa. Được mời phát biểu, Người nói:
“Quốc tế của các đồng chí chỉ trở thành một quốc tế thật sự khi mà không những nông dân phương Tây, mà cả nông dân ở phương Đông, nhất là nông dân ở các thuộc địa là những người bị bóc lột và bị áp bức nhiều hơn các đồng chí, đều tham gia quốc tế của các đồng chí” (10).
Hội nghị bầu ra Hội đồng Quốc tế Nông dân gồm 52 uỷ viên, thông qua các văn kiện và kết thúc vào ngày 16-10-1923.o:p>
Thời gian ở Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc viết nhiều bài cho tạp chí Krestianski International (Quốc tế Nông dân), đề cập đến các vấn đề của nông dân Việt Nam, Trung Quốc và Bắc Phi, tố cáo chế độ áp bức, bóc lột dã man của bọn thực dân, đế quốc, chỉ rõ phương hướng đấu tranh cho những người nông dân thuộc địa và nửa thuộc địa. Trong khi nêu vấn đề xoá bỏ tình trạng khổ cực của những người nông dân, Nguyễn Ái Quốc cũng đồng thời chỉ rõ nguồn sức mạnh và hướng những người nông dân vào cuộc đấu tranh đó, với khẩu hiệu: “Tất cả ruộng đất về tay nông dân“ (11). Sau khi rời Liên Xô, Người được giao nhiệm vụ phụ trách phong trào nông dân các nước châu Á với tư cách uỷ viên Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân.
Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô tham dự Đại hội Quốc tế Cộng sản, nhưng do Lênin ốm nặng, nên đại hội hoãn họp, vì vậy, Người tham gia lớp học ngắn hạn của Trường đại học Phương Đông. Ngày 2-4-1924, Nguyễn Ái Quốc được mời tham dự lễ kỷ niệm lần thứ ba ngày thành lập trường. Trong thời gian học tập ở trường, Nguyễn Ái Quốc đã trao đổi với những thanh niên Trung Quốc, tập hợp tư liệu do họ cung cấp và chủ biên cuốn sách:Trung Quốc và thanh niên Trung Quốc, bằng tiếng Pháp (được Petrôva Sua dịch ra tiếng Nga, Nxb. Nôvaia Mátxcơva xuất bản năm 1925).
TThời gian này, Nguyễn Ái Quốc gặp và trả lời phỏng vấn nhà thơ Ôxíp Manđenxtam và Người đã để lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng nhà thơ:
“Từ Nguyễn Ái Quốc đã toả ra một thứ văn hoá, không phải văn hoá Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hoá tương lai… Dân An Nam là một dân tộc giản dị và lịch thiệp. Qua phong thái thanh cao, trong giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ái Quốc, chúng ta như nghe thấy ngày mai, như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái toàn thế giới” (12).
Cảm nhận của nhà thơ, nhà báo đã góp phần làm cho dư luận và bạn bè quốc tế chú ý hơn đến người chiến sĩ cộng sản Nguyễn Ái Quốc của Đông Dương thuộc địa.o:p>
Ngày 21-1-1924, Lênin qua đời. Vô cùng thương tiếc Lênin, ngày 23-1-1924, Nguyễn Ái Quốc đã có mặt trong dòng người vào vĩnh biệt Lênin. Sau đó, Người viết bài: Lênin và các dân tộc thuộc địa, đăng báo Sự thật (Pravđa), ngày 27-1-1924, và khẳng định: “Lênin bất diệt sẽ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”. Đây là lời thề của người chiến sĩ cộng sản Nguyễn Ái Quốc, Người sẽ phấn đấu hiện thực hoá tư tưởng của Lênin vĩ đại ở các thuộc địa. Người sẽ gắn bó cuộc cách mạng giải phóng dân tộc với con đường đi tới cuộc cách mạng xã hội xã hội chủ nghĩa sau đó.
Nửa năm sau ngày Lênin mất, Nguyễn Ái Quốc viết bàiLênin và các dân tộc phương Đông, đăng báo Le Paria (số 27, tháng 7-1924), Người khẳng định:
“Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người, không gì ngăn cản nổi” (13).
Học xong lớp ngắn hạn tại Đại học Phương Đông, trong khi chờ đợi Đại hội V Quốc tế Cộng sản khai mạc và chờ lên đường về châu Á, Nguyễn Ái Quốc được nhận vào làm cán bộ của Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản (theo giấy xác nhận do Pêtơrốp ký ngày 14-4-1924).o:p>
Nhân ngày Quốc tế lao động 1-5-1924, Nguyễn Ái Quốc được mời đến Hồng trường nói chuyện với những người đi biểu tình và được Tư lệnh thành phố Mátxcơva cấp giấy phép tự do đi lại trên Hồng trường trong ngày Quốc tế của những người lao động. Những hoạt động tích cực của Người trên đất nước Xôviết, sự có mặt của Người trong những nghi lễ quan trọng cho thấy vai trò và uy tín của Nguyễn Ái Quốc ngày càng được khẳng định ở trung tâm phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Nguyễn Ái Quốc dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản họp từ ngày 17-6 đến 8-7-1924 tại Mátxcơva (với 504 đại biểu thay mặt cho 46 đảng cộng sản, 4 đảng không cộng sản và 10 tổ chức quốc tế) để tổng kết tình hình, rút ra những bài học kinh nghiệm của các cuộc đấu tranh giai cấp trong những năm 1918-1923, đồng thời nêu lên ý nghĩa, tầm quan trọng của việc bônsêvích hoá các đảng cộng sản. Tại đại hội, vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa màNguyễn Ái Quốcđặc biệt lưu tâm là điểm thứ 5 của chương trình nghị sự.
Trong buổi khai mạc đại hội, Nguyễn Ái Quốc phát biểu: Tôi muốn biết đại hội có gửi Lời kêu gọi đặc biệt đến các dân tộc thuộc địa không? Và trước khi biểu quyết thông quaLời kêu gọi, Người đề nghị bổ sung mấy chữ: Gửi các dân tộc thuộc địa.
Sau đó, tại phiên họp thứ 8, ngày 23-6-1924, Nguyễn Ái Quốc được mời phát biểu ý kiến. Thẳng thắn phê bình một số đảng cộng sản đã coi nhẹ vấn đề thuộc địa, Người nói:
“Tôi đến đây để không ngừng lưu ý Quốc tế Cộng sản đến một sự thật là: Thuộc địa vẫn đang tồn tại, và vạch ra để Quốc tế Cộng sản thấy rằng: Cách mạng, ngoài vấn đề tương lai của các thuộc địa còn có cả nguy cơ của các thuộc địa”;vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa… Thế mà các đồng chí khi nói về cách mạng, các đồng chí lại khinh thường thuộc địa” (14).
Tiếp tục chương trình nghị sự, được phát biểu về vấn đề dân tộc và thuộc địa, tại phiên họp thứ 22 của đại hội, ngày 1-7-1924, Nguyễn Ái Quốc khẳng định tầm quan trọng và vị trí của cách mạng thuộc địa:
“Cách mạng ở phương Tây muốn thắng lợi thì nó phải liên hệ chặt chẽ với phong trào giải phóng chống chủ nghĩa đế quốc ở các nước thuộc địa và các nước bị nô dịch” (15).
Tại phiên họp thứ 25, ngày 3-7-1924, Nguyễn Ái Quốc phát biểu về vấn đề ruộng đất và nông dân ở các thuộc địa của Pháp. Nói về sự thất bại của nông dân bản xứ, Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh:
“Họ còn thiếu tổ chức, thiếu người lãnh đạo. Quốc tế Cộng sản cần phải giúp đỡ họ tổ chức lại, cần phải cung cấp cán bộ lãnh đạo cho họ và chỉ cho họ con đường đi tới cách mạng và giải phóng” (16).
Với danh nghĩa đại biểu Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc được mời tham dự Đại hội lần thứ III Quốc tế Công hội đỏ, họp từ ngày 7 đến ngày 22-7-1924. Trong bài tham luận tại đại hội, Nguyễn Ái Quốc trình bày những vấn đề liên quan đến giai cấp vô sản ở Đông Dương, khẳng định giai cấp vô sản Đông Dương chưa có một tổ chức công nhân nào cả. Từ thực tế đó, Người đề nghị:
“Các tổ chức công nhân cách mạng Pháp phải tích cực giúp đỡ chúng tôi trong cuộc đấu tranh giải phóng của chúng tôi” (17).
Sau đó, Người được mời và tham dự Đại hội Quốc tế Cộng sản Thanh niên và Hội nghị của Tổ chức Quốc tế Cứu tế đỏ (MOPR).o:p>
Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc tại các đại hội trên đã giúp cho giai cấp công nhân thế giới và nhân dân Xôviết hiểu rõ hơn về tình cảnh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam nói riêng và nhân dân Đông Dương nói chung, đồng thời đặt nền móng cho sự liên minh, tình đoàn kết vô sản quốc tế giữa nhân dân Việt Nam và những người lao động thế giới.
Trong thời gian ở Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc đã tranh thủ viết bài cho các báo Nhân đạo (L’Humanité), Đời sống công nhân (La Vie Ouvrière), Sự thật (Pravđa), Người cùng khổ (Le Paria), Thư tín quốc tế (Inprékor), Tạp chí Cộng sản vv.v.. Các bài báo tập trung nói về các vấn đề liên quan đến giai cấp công nhân, đến cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân ở các thuộc địa, đồng thời chỉ ra mối quan hệ khăng khít giữa cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng thuộc địa:
“Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi còn lại kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra” (18).
Vì thế, muốn thủ tiêu tận gốc chủ nghĩa tư bản, phải xây dựng tình đoàn kết giữa giai cấp vô sản chính quốc với giai cấp vô sản, đặc biệt là đội tiên phong của nó ở thuộc địa, đoàn kết giữa các dân tộc thuộc địa thành một mặt trận thống nhất chống chủ nghĩa đế quốc.o:p>
Thông qua các bài viết, Nguyễn Ái Quốc đã cụ thể hoá và vận dụng sáng tạo những luận điểm của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Không dừng lại ở đó, trong khi chỉ ra vị trí và sức mạnh của nhân dân thuộc địa trong cuộc đấu tranh giải phóng, trong khi nhấn mạnh rằng: Muốn đánh vào sào huyệt của chủ nghĩa thực dân thì phải tước hết thuộc địa của chúng, Nguyễn Ái Quốc cũng đồng thời chỉ ra tính chủ động cách mạng của nhân dân thuộc địa. Cùng với những hoạt động lý luận và thực tiễn của mình, Người đã đấu tranh kiên quyết để góp phần hiện thực hoá khẩu hiệu nổi tiếng của Lênin: Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!
Từ những bài báo viết trong những năm 1921-1924 này, Người bổ sung, sửa chữa thành cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp. Cuối năm 1924, bản thảo được gửi từ Mátxcơva đến Pari cho Hội Liên hiệp thuộc địa và Ban biên tập báo Le Paria (trước khi Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô đi Quảng Châu). Cuốn sách gồm 12 chương và phần Phụ lục, đề cập ba nội dung lớn: Tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp; Sự thức tỉnh các dân tộc thuộc địa; Phương hướng đấu tranh, giải phóng các thuộc địa theo đường lối của Quốc tế Cộng sản. Bài viết: Gửi thanh niên Việt Nam để ở phần Phụ lục của cuốn sách, đó là những lời tâm huyết của Người với thế hệ thanh niên trước vận mệnh của đất nước. Từ việc đánh giá đúng vị trí, vai trò của thanh niên trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, Người kêu gọi:
“Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu đám Thanh niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh” (19).
Bằng sự nhạy bén về chính trị, phân tích tình hình thế giới, dự báo cục diện của phương Đông và phương Tây, thông qua các bài viết, Nguyễn Ái Quốc kêu gọi giai cấp vô sản quốc tế hãy cảnh giác với “lò lửa của chiến tranh thế giới mới”:
“Thái Bình Dương và các nước thuộc địa xung quanh Thái Bình Dương, tương lai có thể trở thành một lò lửa của chiến tranh thế giới mới mà giai cấp vô sản sẽ phải nai lưng ra gánh” (20).
Đồng thời, Nguyễn Ái Quốc tuyên truyền về thành tích của nước Nga Xôviết, về sự giúp đỡ của nước Nga với các dân tộc thuộc địa, góp phần chống lại sự xuyên tạc của báo chí tư sản đối với cách mạng Nga, với đất nước Nga Xôviết, bởi theo Người:
“Nếu nước Nga chưa phải là một thiên đường cho tất cả mọi người, thì nước Nga đã là một thiên đường của trẻ con” (21).
Sống và hoạt động ở Mátxcơva, trung tâm của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, điều mà Nguyễn Ái Quốc nhận thấy rõ nhất, đó là Quốc tế Cộng sản và các đảng ở châu Âu hiểu biết rất ít về tình hình ở các thuộc địa. Đặc biệt, Người nhận thức rõ rằng, không thể áp dụng một cách máy móc, rập khuôn những nguyên lý về đấu tranh giai cấp của học thuyết Mác vào điều kiện cụ thể của các thuộc địa. Vì vậy, Người xác định sẽ tận dụng mọi cơ hội để có thể giúp những người cộng sản ở phương Tây hiểu rõ hơn về thuộc địa. o:p>
Thông qua các nội dung và những phân tích một cách khoa học đặc điểm của các nước phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng, bài viếtBáo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ (1924) của Nguyễn Ái Quốc đã tập trung nêu rõ: Tính chất cuộc đấu tranh giai cấp ở phương Đông không diễn ra quyết liệt như ở phương Tây; đề cao chủ nghĩa yêu nước, coi chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước; sự cần thiết phải vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển học thuyết Mác cho phù hợp với điều kiện của từng quốc gia, đặc biệt là phương Đông. Theo Nguyễn Ái Quốc:
“Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”(22), vì vậy phải xem xét lại “cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông” (23).
Những luận điểm và kiến nghị trong báo cáo của Người với Quốc tế Cộng sản, về tình hình, đặc điểm của Việt Nam, thể hiện sự sâu sát thực tế và việc vận dụng những nguyên lý cơ bản của học thuyết Mác – Lênin vào thực tiễn Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc, có ý nghĩa như một phương hướng chung, có tính chất như một cương lĩnh hành động của cách mạng Việt Nam. Báo cáo nhấn mạnh việc:
1. Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản;
2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam;
3. Dự báo về khả năng một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương và nó phải được sự ủng hộ của nước Nga Xôviết, của giai cấp vô sản toàn thế giới.
Trong điều kiện lịch sử khi đó, những ý kiến trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳthể hiện một tư duy sắc sảo, một thái độ dũng cảm của Nguyễn Ái Quốc trong việc khẳng định: Thực tiễn là tiêu chuẩn, là sự kiểm nghiệm của chân lý. Mặt khác, báo cáo cũng thể hiện sự nắm vững linh hồn, phương pháp của học thuyết Mác và sự vận dụng sáng tạo của Người trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Với hơn một năm sống, học tập và làm việc trên đất nước Xôviết, dù thời gian không dài, song những nghiên cứu về lý luận, những hoạt động thực tiễn đã giúp Nguyễn Ái Quốc có điều kiện trang bị cho mình vốn kiến thức lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin một cách hệ thống. Đồng thời, Người có điều kiện khảo nghiệm, chứng kiến những thành tựu của Nhà nước và nhân dân Xôviết. Những hoạt động sôi nổi của Nguyễn Ái Quốc, đã đanh thép tố cáo tội ác thực dân, nhận thức và luận giải một cách khoa học những vấn đề về thuộc địa, vai trò cách mạng thuộc địa trong mối quan hệ khăng khít với sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản thế giới.
Không chỉ nắm vững những vấn đề cơ bản của học thuyết Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc còn đề xuất nhiều luận điểm và phát triển một cách sáng tạo lý luận về cách mạng thuộc địa của Lênin, làm phong phú lý luận Mác – Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo cách mạng vô sản. Được sống, học tập tại trung tâm cách mạng thế giới, được làm việc tại Quốc tế Cộng sản, được đấu tranh và rèn luyện trong phong trào cộng sản quốc tế, nhận thức luận của Nguyễn Ái Quốc được nâng cao, uy tín chính trị của Nguyễn Ái Quốc được củng cố.
Không dừng lại ở đó, nhận thức được sứ mệnh của mình và hướng đến mục tiêu: Độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào, với tất cả tinh thần và nhiệt huyết của mình, Nguyễn Ái Quốc chọn con đường về gần Tổ quốc, xúc tiến một lộ trình cho công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam. Khi biết sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, hiện có nhiều thanh niên yêu nước Việt Nam đang có mặt ở Quảng Châu, họ yêu nước, nhưng chưa có tổ chức và thiếu một đường lối đúng đắn trong hoạt động, Nguyễn Ái Quốc đã chọn Quảng Châu làm điểm dừng chân trên hành trình tiến gần về Tổ quốc, để tổ chức, đoàn kết, huấn luyện những thanh niên đầy nhiệt huyết đó đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập.
Sau nhiều lần đề đạt, nguyện vọng của Nguyễn Ái Quốc được Quốc tế Cộng sản chấp nhận. Với tư cách là cán bộ Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản, đồng thời là Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân, Nguyễn Ái Quốc được giao theo dõi và chỉ đạo phong trào cách mạng ở một số nước châu Á.
Cuối tháng 10-1924, Nguyễn Ái Quốc rời Mátxcơva, đi xuyên Xibêri, nghỉ lại ở Vlađivôxtốc, rồi xuống tàu Viễn Dương của Liên Xô đi Trung Quốc. Người đến Quảng Châu ngày 11-11-1924, xúc tiến việc chuẩn bị thành lập chính đảng vô sản kiểu mới cho giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam.
NNắm tình hình và định hướng những công việc cần phải làm, ngày 12-11-1924, Người viết thư gửi một đồng chí trong Quốc tế Cộng sản báo tin:
“Tôi đã đến đây hôm qua, và đang ở nhà đồng chí Bôrôđin với 2 hoặc 3 đồng chí Trung Quốc. Tôi chưa gặp ai cả.
Mọi người ở đây đều bận về việc Bác sĩ Tôn lên phương Bắc.
Tôi sẽ viết thư cho đồng chí sớm” (24).
Để chuẩn bị về tổ chức và tiếp tục chuẩn bị về chính trị, tư tưởng cho sự ra đời của một đảng mácxít ở Việt Nam, Người tiếp xúc với những người Việt Nam yêu nước đang hoạt động tại Quảng Châu. Đầu tiên là những thanh niên hăng hái nhất trong i>Tâm Tâm xã.. Dần dần, Người mở rộng địa bàn hoạt động của mình. Trong thư gửi một cán bộ phụ trách Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản, ngày 22-12-1924, Nguyễn Ái Quốc báo cáo:
“Tôi đã tìm thấy ở đây vài người Đông Dương mà với họ, tôi hy vọng làm được việc gì đó” (25).
Những hoạt động bước đầu đã giúp Nguyễn Ái Quốc tìm được chỗ dựa, hình thành được nhóm trung kiên để triển khai công việc. Từ việc nắm rõ những đặc điểm, tình hình đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của Việt Nam được thể hiện rõ trong báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, Nguyễn Ái Quốc đã khẩn trương, chủ động và cẩn trọng tiến hành xây dựng tổ chức cách mạng theo từng bước: tiếp xúc và tìm hiểu những người Việt Nam yêu nước đang hoạt động ở miền Nam Trung Quốc, để lập ra nhóm bí mật làm hạt nhân (Báo cáo gửi Đoàn Chủ tịch Quốc tế Cộng sản ngày 19-2-1925):o:p>
“Chúng tôi đã lập một nhóm bí mật gồm 9 hội viên, trong đó có:
2 người đã được phái về nước.
3 người ở tiền tuyến (trong quân đội của Tôn Dật Tiên).
1 người đang đi công cán quân sự (cho Quốc dân Đảng).
Trong số hội viên đó, có 5 người đã là đảng viên dự bị của Đảng Cộng sản”(26).
Bước tiếp theo, Người tiến tới thành lập một tổ chức có tính chất quần chúng rộng hơn nhằm tập hợp những thanh niên yêu nước trong và ngoài nước. Đó là tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên được thành lập 6-1925. Được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, cấp dưới phục tùng cấp trên, thiểu số phục tùng đa số, lấy tự phê bình và phê bình làm phương châm phát triển của mình, trongHội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, tất cả các hội viên phải hoạt động trong quần chúng, tuyệt đối giữ bí mật hoạt động của hội. Hội được tổ chức thành 5 cấp: Tổng bộ, kỳ bộ, tỉnh bộ, huyện bộ và chi bộ.
Mục đích của hội llà:
“Hy sinh tính mệnh, quyền lợi, tư tưởng để làm cuộc cách mạng dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành lại được độc lập cho xứ sở) rồi sau làm cách mệnh thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng sản)” (27).
Điều lệ/i> của hội đề cập đến Chương trình hoạt động như kết nạp hội viên; tổ chức các đoàn thể như Công hội, Nông hội, Hội học sinh, Hội phụ nữ…, thành lập chính phủ nhân dân, đoàn kết với các giai cấp vô sản của tất cả các nước và thành lập xã hội cộng sản.Điều lệ còn quy định cụ thể về điều kiện vào hội, lề lối tổ chức, cơ cấu các cấp trung ương, xứ uỷ, tỉnh uỷ, huyện uỷ, chi bộ, vấn đề tiến hành hội nghị thường kỳ của các cấp và hội nghị toàn quốc, kỷ luật và nhiệm vụ của hội viên…
Việc thành lậpHội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là một sáng tạo, có chủ đích của Nguyễn Ái Quốc. Đây là một tổ chức quá độ, phù hợp với điều kiện của Việt Nam khi đó, nhằm đưa chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối và phương pháp đấu tranh cách mạng mới vào phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân ta. Thông qua những hội viên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, thông qua phong trào vô sản hoá, luồng tư tưởng mới của thời đại đã xâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, làm thay đổi tính chất, chiều hướng của phong trào đấu tranh cách mạng, đưa đến sự thắng lợi của khuynh hướng vô sản. Thông qua những nội dung hoạt động của mình, hội đã thu hút đông đảo các lực lượng vào tổ chức cách mạng của mình, đồng thời có ảnh hưởng tích cực đến các tổ chức chính trị cùng thời khác.
Đã có một tổ chức, một điểm tựa, Nguyễn Ái Quốc mở lớp huấn luyện chính trị để chuẩn bị xây dựng một đội ngũ cán bộ làm nòng cốt cho việc tuyên truyền những nguyên lý cơ bản của học thuyết Mác – Lênin về trong nước. Lớp học chính thức khai mạc cuối năm 1925 tại ngôi nhà số 13 và 13/1 (nay là nhà số 248 – 250), đường Văn Minh, Quảng Châu, Trung Quốc. Từ đầu năm 1926 đến tháng 4-1927, Nguyễn Ái Quốc đã mở được ba khóa huấn luyện cho khoảng 75 người (28). Người trực tiếp phụ trách và là giảng viên chính. Chương trình học tập bao gồm cả lý thuyết lẫn thực hành. Thông qua huấn luyện, các học viên được vũ trang những vấn đề sơ giản về chủ nghĩa Mác – Lênin, về những nguyên tắc hoạt động bí mật và kỹ năng thực hành các công tác vận động quần chúng… Sau này, những bài giảng của Người được tập hợp, hoàn thiện trong cuốn Đường Kách mệnh. Tuyệt đại bộ phận học viên học xong đều trở về nước và về Xiêm hoạt động. Họ đã trở thành những người tuyên truyền, tổ chức các tổ chức cách mạng trong nước và Việt kiều ở Xiêm.
Với tầm nhìn chiến lược, với vị thế cán bộ của Ban Phương Đông, Nguyễn Ái Quốc lựa chọn những thanh niên Việt Nam có khả năng, gửi đi học Trường đại học Cộng sản của những người lao động Phương Đông ở Mátxcơva (Trường đại học Phương Đông) và Trường quân sự Hoàng Phố ở Quảng Châu. Không chỉ dừng lại ở việc lựa chọn và cử những thanh niên đi đào tạo, Người còn muốn gửi những thiếu nhi độ tuổi từ 12-15 có mặt ở Quảng Châu, đang là “những thiếu nhi cộng sản đầu tiên của nước An Nam” sang Mátxcơva để đào tạo, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ cốt cán đáp ứng yêu cầu của cách mạng Việt Nam sau này.
Cùng với việc đào tạo đội ngũ cán bộ, Nguyễn Ái Quốc chủ trương xuất bản sách và báo chí làm phương tiện tuyên truyền.Báo Thanh niên, cơ quan ngôn luận củaHội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập và trực tiếp chỉ đạo, đồng thời là cây bút chủ chốt (số đầu tiên ra ngày 21-6-1925), có các chuyên mục: xã hội, bình luận, tin tức, diễn đàn, vấn đáp, phê bình, trả lời bạn đọc, v.v.. Những bài viết của báoThanh niên đều ngắn gọn, lời văn giản dị, trong sáng, dễ hiểu, thường đề cập những vấn đề chính: đế quốc và thuộc địa; cách mạng và cải lương; thực tiễn của cách mạng Việt Nam; đảng cách mạng và Đảng Cộng sản; cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới; cách mạng và mặt trận dân tộc thống nhất; học tập lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, v.v.. Thông qua báoThanh niên, tổ chứcHội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã thống nhất về phương hướng và nội dung tuyên truyền giáo dục ở trong và ngoài hội.
Báo Thanh niên ra hằng tuần, bằng tiếng Việt. Từ tháng 6-1925 đến tháng 4-1927, báo ra được 88 số. Là tờ báo đầu tiên trong lịch sử báo chí cách mạng nước ta, báoThanh niên đã góp phần quan trọng vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam.
Tiếp theo tờ Thanh niên, Nguyễn Ái Quốc cùng các bạn chiến đấu của mình còn xuất bản ba tờ báo định kỳ khác là: báo Công nông (từ tháng 12 – 1926 đến đầu năm 1928), bán nguyệt sanLính cách mệnh (từ đầu năm 1927 đến đầu năm 1928) vàViệt Nam tiền phong cho những đối tượng hẹp hơn.
Cùng với việc xuất bản báo, Nguyễn Ái Quốc dành thời gian cho cuốn Đường Kách mệnh.Cuốn sách gồm những bài giảng của Người tại các lớp huấn luyện chính trị cho cán bộ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Quảng Châu (Trung Quốc) trong những năm 1925-1927 được tập hợp và hoàn thiện. Cuốn sách được Bộ Tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông xuất bản vào đầu năm 1927 để làm tài liệu học tập và tuyên truyền.
Đường Kách mệnh đề cập nhiều nội dung, trong đó Nguyễn Ái Quốc tập trung nêu rõ chuẩn mực đạo đức của những chiến sĩ cách mạng; giới thiệu tính chất, nội dung các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, như: Cách mạng Mỹ 1776, Cách mạng Pháp 1789, Cách mạng Nga 1917; giới thiệu về Quốc tế I, Quốc tế II, Quốc tế III, v.v.. Thông qua những nội dung này, Người chỉ rõ tư tưởng cách mạng triệt để: Muốn sống thì phải làm cách mạng và muốn làm cách mạng thành công phải có đảng lãnh đạo, có chủ nghĩaMác – Lênnin làm nòng cốt, phải có phương pháp cách mạng, v.v., phải gắn cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của phong trào cách mạng thế giới. TừĐường Kách mệnh, Người khẳng định: cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn dân chứ không phải của một vài cá nhân, vì vậy đoàn kết trong đảng, đoàn kết toàn dân tộc là một trong những nhân tố quan trọng bảo đảm thắng lợi cho cách mạng Việt Nam… Phần cuối Đường Kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc dành giới thiệu các tổ chức quần chúng của Quốc tế Cộng sản như Quốc tế Thanh niên, Quốc tế Công hội.
Đường Kách mệnh là một trong những tác phẩm quan trọng, đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, đồng thời là một trong những văn kiện lý luận đầu tiên của Đảng ta, đặt cơ sở tư tưởng cho đường lối của cách mạng Việt Nam sau này. Cùng với Đường Kách mệnh và báo Thanh niên, các tờ báo và nguyệt san bí mật được chuyển về Việt Nam, đã góp phần quan trọng vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng và con đường giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để tiến tới thành lập bộ tham mưu tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam.
Trong những năm tháng hoạt động cách mạng ở Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc thể hiện vai trò của người chiến sĩ cộng sản quốc tế. Người tham gia những hoạt động giúp đỡ phong trào cách mạng các nước trong khu vực, đặc biệt là phong trào cách mạng của Trung Quốc những năm 1925-1927. Người đã cùng với các đồng chí Trung Quốc, Ấn Độ, Triều Tiên, Miến Điện tích cực vận động thành lập một tổ chức cách mạng có tính chất quốc tế -Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức (9-7-1925), nhằm đoàn kết các dân tộc nhỏ yếu, bị áp bức trong một tổ chức cách mạng để giải phóng đất nước khỏi ách thực dân, đưa các dân tộc bị nô lệ vào con đường đấu tranh giải phóng dân tộc.
Đối với phong trào cách mạng Trung Quốc, Người không chỉ bày tỏ thiện cảm, sự quan tâm và ủng hộ mà còn tham gia trực tiếp như một chiến sĩ quốc tế nồng nhiệt. Người tham gia Hội nghị đầu tiên của đại biểu nông dân Quảng Đông (tháng 5-1925) và Hội nghị lần thứ hai đại biểu giai cấp công nhân Trung Quốc; tham gia đội diễn thuyết, ủng hộ cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Trung Quốc với bí danh Lý Thụy và Vương Đạt Nhân… Thông qua những hoạt động thực tiễn đó, Nguyễn Ái Quốc đã thể hiện một cách sinh động tinh thần quốc tế vô sản cao cả.
Sau cuộc đảo chính phản cách mạng của Tưởng Giới Thạch (4-1927), những người cách mạng Việt Nam hoạt động trên đất Trung Quốc đã trở thành đối tượng của sự khủng bố. Không thể tiếp tục ở lại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc chuyển đến Hương Cảng, nhưng mật thám Anh lại yêu cầu Người phải rời Hương Cảng. Người đi Thượng Hải, nhưng tại đây, Quốc dân Đảng cũng đang tiến hành những đợt khủng bố gắt gao, vì vậy, Người quyết định rời Thượng Hải trên một chiếc tàu buôn đi Vlađivôxtốc.
Tháng 5-1927, Nguyễn Ái Quốc trở lại Mátxcơva sau gần ba năm xa cách, tiếp tục làm việc trong Quốc tế Cộng sản. Sau ít ngày nghỉ ngơi trên bãi biển Crưm, Người quay trở lại Mátxcơva. Người bắt tay viết cuốn sách nhỏ Công tác quân sự của Đảng trong nông dân, đúc kết kinh nghiệm cao trào cách mạng và các đảng cộng sản ở các nước nông nghiệp và nửa nông nghiệp, nêu tầm quan trọng của công tác tuyên truyền chính trị, tổ chức và quân sự trong nông dân, đặc biệt là công tác quân sự của đảng trong nông dân, v.v.. Người cũng từ tìm hiểu, nghiên cứu và viết nhiều bài về Ấn Độ và được công bố vào năm 1928 như: Phong trào công nhân ở Ấn Độ (Inpreko, tiếng Pháp, số 37, 21-4-1928), Sự bóc lột phụ nữ và trẻ em Ấn Độ (Inpreko, tiếng Pháp, số 39, 14-4-1928), v.v.. Đặc biệt, trong bài viết Sự thống trị của đế quốc Pháp ở Đông Dương đăng trên tập san Thư tín quốc tế, số 104, 1927, Nguyễn Ái Quốc đề cập bản chất sự kiện chính trị thời sự (xung đột Hoa – Việt ở Hải Phòng) của nước ta khi đó.
Trung tuần tháng 11-1927, Người được Quốc tế Cộng sản cử đi Pháp công tác. Đầu tháng 12-1927, từ Pháp Người đi dự phiên họp mở rộng của Đại hội đồng Liên đoàn chống đế quốc tại Brúcxen (Bỉ). Sau khi mật thám Pháp phát hiện sự có mặt của Nguyễn Ái Quốc tại Pháp, Người quyết định thay đổi hành trình. Bí mật quay trở lại Đức vào trung tuần tháng 12-1927, và ở đây Người nhận làm phóng viên cho tờ báo Thế giới (Die Welt). Không lâu sau, theo nguyện vọng của Người, Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản ra quyết định đồng ý để Nguyễn Ái Quốc trở về hoạt động ở Đông Dương (25-4-1928). Ngày 21-5-1928, từ Béclin Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi các đồng chí trong Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản, báo tin về việc chuẩn bị lên đường và những việc đã làm (29).
Đầu tháng 6-1928, Nguyễn Ái Quốc rời Béclin, bắt đầu cuộc hành trình để về gần Tổ quốc. Từ Đức, Người qua Thụy Sĩ đến Italia. Tại biên giới Thuỵ Sĩ – Italia, mặc dù bị cảnh sát gây khó dễ nhưng Người cũng vượt qua được và đi Milan, rồi từ Rôma, Người đến Napôli, đáp tàu thuỷ Nhật Bản đi Xiêm.
Từ tháng 7-1928 đến tháng 11-1929, Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Xiêm (từ năm 1938 gọi là Thái Lan), xây dựng lực lượng cách mạng trong Việt kiều yêu nước. Đầu tiên, Người tới Băng Cốc, từ đó, đi Bản Đôn (huyện Phì Chịt, tỉnh Phítxanuloốc). Để giữ bí mật, Người dùng một số bí danh như Thọ, Nam Sơn, Thầu Chín, v.v.. Cuối tháng 7-1928, Nguyễn Ái Quốc rời Phì Chịt đến vùng Đông Bắc Xiêm như Uđon Thani, Xa Vang, Na Khôn Pha Nôm, Noọng Khai, v.v., để xây dựng cơ sở, từ đó tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin và phong trào đấu tranh cách mạng, gây ảnh hưởng về trong nước.
Từ một thực tế Việt kiều sinh sống ở Xiêm phần nhiều là nông dân, thợ thủ công và những người buôn bán nhỏ, cho nên, trong thời gian ở đây, Người tiếp tục các hình thức hoạt động như ở Quảng Châu. Người hoà mình với đông đảo quần chúng, sống đời sống của quần chúng, làm những việc cùng với quần chúng, phát hành báo chí (đổi tên tờ báo Đồng thanh thành Thân ái và ra được hai số), mở lớp đào tạo ngắn hạn cho hội viên của chi hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, nắm tình hình trong nước và Quốc tế Cộng sản, dịch một sách mácxít phổ thông sang tiếng Việt (Nhân loại tiến hoá sử, A.B.C chủ nghĩa cộng sản, v.v..). Với sự hoạt động tích cực của Người, phong trào yêu nước của Việt kiều ở Xiêm đã có nhiều chuyển biến mới, tích cực. Các tổ chức cách mạng được củng cố và phát triển. Sự đoàn kết trong nội bộ Việt kiều, mối quan hệ thân thiện giữa Việt kiều và người Xiêm được tăng cường. Những hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc trong Việt kiều đã có ảnh hưởng tốt về trong nước.
CCũng trong khoảng thời gian từ tháng 7-1928 đến tháng 11-1929, Nguyễn Ái Quốc, lúc đó với tên gọi Thầu Chín từ Xiêm vượt sông Mê Kông ít nhất hai lần sang thị xã Xavănnakhẹt và bản Xiêng Vang, huyện Noọng Bốc, tỉnh Khăm Muộn của Lào để nghiên cứu tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của nhân dân Lào, của bà con Việt kiều và khảo sát thực địa để tìm đường bí mật qua Lào về hoạt động tại Việt Nam (30). Sau này, trong báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản ngày 18-2-1930, Người đã báo cáo về tình hình Lào và việc định trở về Việt Nam không thành:
“Đã hai lần tôi cố gắng về An Nam, nhưng phải quay trở lại. Bọn mật thám và cảnh sát ở biên giới quá cẩn mật, đặc biệt là từ khi xảy ra vụ An Nam “Quốc dân đảng” (31).
Trong những năm 1928-1929, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta tiếp tục phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Chủ nghĩa Mác – Lênin được Nguyễn Ái Quốc và những chiến sĩ tiên phong truyền bá về trong nước, cùng với phong trào “vô sản hoá” đã làm chuyển biến phong trào công nhân từ hình thức đấu tranh tự phát, đơn lẻ, chủ yếu đòi quyền lợi về kinh tế sang đấu tranh tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo, có sự phối hợp giữa các ngành và các địa phương. Sự phát triển cả bề sâu và bề rộng của phong trào cách mạng trong cả nước đã đặt ra một yêu cầu bức thiết, đòi hỏi sự lãnh đạo của một chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Trong bối cảnh đó, những phần tử tiên phong trong phong trào cách mạng đã nhận thức được tình hình, và đứng ra thành lập những tổ chức cộng sản đầu tiên vào nửa cuối năm 1929 đầu năm 1930. o:p>
Ngày 17-6-1929, tại nhà số 312 phố Khâm Thiên, Hà Nội, Hội nghị các đại biểu tiên tiến trong tổ chức Thanh niên Bắc Kỳ đã họp, quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng, raChính cương, Tuyên ngôn, nêu rõ đường lối của Đảng là phải làm cách mạng dân chủ tư sản do giai cấp vô sản lãnh đạo,tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, thực hành công – nông liên hiệp. Sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng đã thúc đẩy phong trào cộng sản ở trong nước phát triển mạnh.
Tiếp đến An Nam Cộng sản Đảng đã ra đời (8-1929) và đến tháng 10-1929, An Nam Cộng sản Đảng đã họp tại Sài Gòn, cử ra Ban lâm thời chỉ đạo của Đảng và ra Điều lệ.
Trong quá trình chuyển hoá chung dưới tác động của luồng gió cách mạng của thời đại theo chủ nghĩa Mác – Lênin, trực tiếp là tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc, phong trào công nhân, nhất là của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Việt Nam nghĩa đoàn – một tổ chức yêu nước tiến bộ theo khuynh hướng quốc gia, đã trải qua nhiều biến thiên và cải tổ, thay đổi tên nhiều lần: Việt Nam nghĩa đoàn đổi tên thành Hội Phục Việt rồi đến Hưng Nam và Việt Nam cách mạng Đảng, đến tháng 7-1928 gọi là Tân Việt cách mạng Đảng. Từ khi tổ chức này tiếp cận và tiếp nhận sự giáo dục chính trị của Thanh niên đã bắt đầu khuynh hướng tả, càng về sau càng chuyển biến mạnh mẽ. Sau các hội nghị của đảng viên cốt cán, tháng 9-1929 những đảng viên ưu tú trong Đảng Tân Việt ra tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (32).
Như vậy, trong nước đã xuất hiện ba tổ chức cộng sản, đều ra Tuyên ngôn, Chính cương vàĐiều lệ, đều khẳng định mục tiêu đấu tranh cho lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản, đều tuyên bố đi theo chủ nghĩa cộng sản, đều muốn được Quốc tế Cộng sản công nhận. Sự tồn tại ba tổ chức cộng sản biệt lập, tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau trong một đất nước, đã dẫn đến nguy cơ chia rẽ, phân liệt của phong trào đấu tranh cách mạng. Yêu cầu cấp bách của cách mạng Việt Nam lúc này là phải chấm dứt tình trạng chia rẽ giữa các tổ chức cộng sản, thống nhất các tổ chức đó thành một đảng cộng sản duy nhất trong cả nước. Nhận thức sâu sắc về nguy cơ phân liệt sẽ gây bất lợi cho sự phát triển của phong trào cách mạng ở Việt Nam, ngày 27-10-1929, Quốc tế Cộng sản đã ra chỉ thị, nêu rõ:
“Nhiệm vụ quan trọng nhất và cấp bách nhất của tất cả những người cộng sản Đông Dương là thành lập một đảng cách mạng có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản, nghĩa là một đảng cộng sản có tính chất quần chúng ở Đông Dương. Đảng đó phải chỉ có một và là tổ chức cộng sản duy nhất ở Đông Dương” (33).
Lúc này, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Xiêm, không biết tới nội dung bảnchỉ thị ngày 27-10-1929 của Quốc tế Cộng sản, tuy nhiên, nhận thức được tầm quan trọng nguy cơ phân liệt, “với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương” (34), Người gấp rút đi Hồng Kông, gửi thư về nước mời đại diện của các tổ chức cộng sản sang Hồng Kông bàn việc hợp nhất các tổ chức cộng sản. Với quyết định chủ động và kịp thời này, cuối năm 1929, Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm và ngày 23-12, Người đến Trung Quốc, gặp gỡ những chiến sĩ cách mạng Việt Nam đang hoạt động ở đây để tìm hiểu thêm tình hình. Sau đó, Người đi Hồng Kông, chuẩn bị công việc cho hội nghị hợp nhất.
Tại Cửu Long, Hồng Kông, từ ngày 6-1-1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đã được tiến hành dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc. Tham dự hội nghị có các đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng là Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh; An Nam Cộng sản Đảng là Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm. Đông Dương Cộng sản liên đoàn đã thành lập, song chưa có liên hệ, nên chưa cử được đại biểu tới dự. Tham gia giúp việc hội nghị là Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn. Hội nghị hợp nhất diễn ra khẩn trương, thuận lợi và đạt được sự nhất trí hoàn toàn, trên cơ sở bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, đặt tên đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt,Chương trình tóm tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc dự thảo. Các văn kiện này trở thànhCương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Chính cương vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam vạch rõ tính chất, nhiệm vụ, đối tượng của cách mạng Việt Nam, trong đó xác định rõ chủ trương của những người cộng sản là làm “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tớixã hội cộng sản. Nhiệm vụ của cuộc cách mạng lúc này là đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập; dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền; phổ thông giáo dục theo công nông hoá; quốc hữu hoá tất cả các xí nghiệp của tư bản đế quốc; dựng ra chính phủ công nông binh; tổ chức ra quân đội công nông; thủ tiêu hết các thứ quốc trái; thi hành luật ngày làm 8 giờ, v.v..
SSách lược vắn tắt của Đảng nêu rõ:
1. “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng.
2. Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến” (35).
Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông để kéo họ đi về phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ. Đồng thời Sách lược vắn tắt nhấn mạnh nguyên tắc hợp tác giai cấp của Đảng là: khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng bộ một chút lợi ích gì của công – nông mà đi vào đường lối thoả hiệp. Đảng phải đồng thời tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp.span style=”mso-spacerun:yes”>
Chương trình tóm tắt của Đảng nêu rõ Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản, có nhiệm vụ “tập hợp đa số quần chúng nông dân, chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa chủ và phong kiến” (36); lôi kéo tiểu tư sản, trí thức và trung nông về phía giai cấp vô sản; liên kết những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới, v.v..
Điều lệ vắn tắt của Đảng nêu rõ tôn chỉ, mục đích của Đảng là lãnh đạo quần chúng đấu tranh để “tiễu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa thực hiện xã hội cộng sản” (37); quy định thể thức gia nhập Đảng; hệ thống tổ chức; trách nhiệm của đảng viên; quyền lợi đảng viên; các cấp đảng chấp hành uỷ viên; kinh phí; kỷ luật của Đảng.
Hội nghị hợp nhất cũng đã thảo luận và quyết định các phương châm và kế hoạch tiến hành hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước, về cách cử ra một Ban Trung ương lâm thời. Trong ngày làm việc cuối cùng, hội nghị đã quyết nghị về việc xuất bản một tạp chí lý luận và ba tờ báo để tuyên truyền.
Sau hội nghị, Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam, viết Lời kêu gọi gửi công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp bức, bóc lột phải đánh đổ đế quốc Pháp, phong kiến và giai cấp tư sản phản cáchmạng để giành được độc lập; thành lập Chính phủ công – nông binh và tịch thu tất cả các nhà hàng, cơ sở sản xuất của đế quốc trao cho chính phủ; tiến tới quốc hữu hoá toàn bộ đồn điền và đất đai của đế quốc và địa chủ phản cách mạng chia cho nông dân nghèo; thực hiện ngày làm 8 giờ, v.v.. Lời kêu gọi là một trong những văn kiện quan trọng của hội nghị hợp nhất. Nó xác định rõ đường lối, mục tiêu, phương châm của cách mạng Việt Nam trước mắt và lâu dài, đó là: “Làm cho nước An Nam được độc lập. Thành lập Chính phủ công – nông -binh” (38). Ngày 8-2-1930, các đại biểu dự hội nghị thành lập Đảng đã về nước. Sau đó, ngày 24-2-1930, một hội nghị quan trọng được tổ chức tại Sài Gòn để xem xét yêu cầu gia nhập Đảng Cộng sản của Đông Dương Cộng sản liên đoàn và nhất trí công nhận Đông Dương Cộng sản liên đoàn được gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam đã thống nhất trong một đảng duy nhất – Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đã hoàn thành trọn vẹn nhiệm vụ lịch sử trọng đại của mình. Thành công của hội nghị và sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi, trí tuệ, uy tín và đạo đức cách mạng, tính chủ động, sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc. Với uy tín và trí tuệ của mình, Nguyễn Ái Quốc đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử, trở thành Người sáng lập Đảng – Đảng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam thành công tốt đẹp, có giá trị như một đại hội thành lập Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam, mở đầu một thời kỳ mới trong lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân cả nước: thời kỳ giai cấp công nhân và đảng tiên phong của nó đứng ở vị trí trung tâm, lãnh đạo phong trào cách mạng. Đường lối đúng đắn của Đảng được thông qua tại Hội nghị hợp nhất đã quyết định nội dung, phương pháp, bước đi của cách mạng Việt Nam, đưa nhân dân Việt Nam bước vào cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do, cùng các dân tộc bị áp bức, đấu tranh giải phóng dân tộc, xóa bỏ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, góp phần giải phóng loài người khỏi bóc lột và bất công.
VViệc tổ chức thành công Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, và việc soạn thảo cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã thể hiện sự sáng tạo của mình trong cả hoạt động lý luận và thực tiễn. Đánh giá về sự kiện trọng đại này trong lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
“Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản nước ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng” (39).
1/span>,2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr. 28, tr.36.
3. Hồ Chí Minh – Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 1, tr. 148.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập,Sđd, t.1, tr. 445.
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr. 460.
6. Hồ Chí Minh: Toàn tập,Sđd, t. 1, tr. 170.
7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 128.
8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr. 456.
9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 195.
10,11 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr. 212, tr.478-479.
12. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr. 478 – 479.
13. Hồ Chí Minh: Toàn tập,Sđd, t.1, tr. 295.
14,15,16. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr. 273, 277, 289.
17. Hồ Chí Minh: Toàn tập,Sđd, t. 1, tr. 293.
18. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 120
19. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 133.
20,21. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 243-244, 465.
22,23. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.465.
24. Hồ Chí Minh: Toàn tập,Sđd, t. 2, tr. 4.
25. Hồ Chí Minh: Toàn tập,Sđd, t. 2 , tr. 15.
26. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr. 141.
27. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Các tổ chức tiền thân của Đảng, Hà Nội, 1977, tr. 82.
28. Hồ Chí Minh: Toàn tập,Sđd, t. 2, tr. 241.
29. Hồ Chí Minh –Biên niên tiểu sử, Sđd, t. 1, tr. 391.
30. Xem: Báo cáo kết quả đề tài khoa học cấp bộ: “Nghiên cứu, sưu tầm tư liệu về Chủ tịch Hồ Chí Minh với tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt Việt – Lào”, lưu Kho tư liệu, Bảo tàng Hồ Chí Minh.
31. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr. 12.
32. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương:Các tổ chức tiền thân của Đảng, Sđd, tr. 289 và Trần Văn Giàu: Thành công của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, 1993, tr.153.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.1, tr. 614.
34. Hồ Chí Minh: Toàn tập,Sđd, t. 3, tr. 12.
35. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.3.
36,37. Hồ Chí Minh: Toàn tập,Sđd, t.3, tr.4, 5.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 2, tr.16.
39. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr. 8.
Nguồn Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam