Kiên định bản lĩnh chính trị và nâng cao cảnh giác trước các luận điệu phản động của thế lực thù địch

211

Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đang đến gần. Một trang sử mới của hành trình kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không chỉ thu hút sự quan tâm của toàn Đảng, toàn dân mà còn “hấp dẫn” cả những người/nhóm người nhân danh dân chủ, giả danh dân chủ, để nhân sự kiện này tăng cường các hoạt động chống phá, với các luận điệu/”thư ngỏ” nhằm xuyên tạc, bịa đặt, kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc nói chung, các đại biểu dự Đại hội XIII của Đảng nói riêng.

Gần đây, thông qua các bài viết, trả lời phỏng vấn, “thư ngỏ” đăng trên mạng xã hội, youtube…, một số người như Phạm Trần, Trần Gia Phụng, S.T.T.D K’ Tien và cả Nguyễn Đình Cống, Nguyễn Quang A… thường hay dẫn/mượn ý lời phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng về công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, công tác nhân sự của Đảng, công tác phòng và đấu tranh chống tham nhũng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ để bao biện cho những suy nghĩ/hành động chống Đảng Cộng sản Việt Nam, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Kiểu các bài viết/trả lời phỏng vấn/”thư ngỏ” về các vấn đề này, liên quan đến nội dung này thường không mới, song hiểm họa từ những luận điệu phản động đó là khôn lường. Vì vậy, hơn bao giờ hết, kiên định bản lĩnh chính trị và nâng cao cảnh giác để nhận diện rõ âm mưu, chủ đích của những đối tượng này là rất quan trọng và cần thiết, là góp phần để cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân nhận rõ dã tâm phản động họ.

THỰC TIỄN LÀ CHÂN LÝ SOI ĐƯỜNG

Hơn 90 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định được vị trí, vai trò độc quyền lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, đưa nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ thành người tự do, làm chủ; đưa dân tộc Việt Nam từ một nước bị Pháp, Nhật thống trị thành một nước tự do, độc lập; đồng thời, xây dựng và phát triển đất nước, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Những thành tựu đất nước Việt Nam, nhân dân Việt Nam đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng là điều không thể phủ nhận, vì thế, âm mưu xóa bỏ vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng, đòi “đa nguyên, đa đảng” với nhiều hình thức và mức độ khác nhau, dưới các chiêu bài khách quan để bảo vệ/bênh vực quyền lợi chính đáng của người dân, đòi dân chủ, đòi thực hiện xã hội dân sự, thành lập báo chí tư nhân… cũng đã bị nhận diện và chỉ ra.

Thực tế, những vấn đề cốt lõi trong đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam này không phải “là sai lầm và lạc hậu” của Đảng như thế lực thù địch nhận định mà đó chính là sự kiên định. Sự kiên định và bản lĩnh chính trị của một Đảng Mácxit Lêninnít do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện.

Trong đó:

Một là, việc lựa chọn và kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam xuất phát từ thực tiễn lịch sử. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp sáng tạo giữa chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Ngay ở Hội nghị thành lập Đảng (1930), Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định “lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc”[1] và quyết định “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[2]

Dưới ngọn cờ độc lập dân tộc có hướng đích chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập hợp, phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Điều này cho thấy, mục tiêu định hướng tương lai: Độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa) là sự lựa chọn chính xác, đúng đắn của Đảng và ngọn cờ đó đã khơi nguồn sức mạnh nội lực của toàn dân tộc, làm nên một cuộc đổi đời lịch sử đối với mỗi người dân Việt Nam, đối với dân tộc Việt Nam.

Đảng luôn kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bởi đây chính là con đường duy nhất đúng để đất nước Việt Nam phát triển bền vững, phồn vinh và hạnh phúc, bởi “con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”[3]. Việc tiếp tục kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội bất chấp sự chống phá điên cuồng của các thế lực thù địch, bất chấp sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã góp phần quan trọng làm nên những thành tựu của đất nước Việt Nam trong gần 35 năm đổi mới và hội nhập quốc tế.

Điều này không chỉ được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh mà còn tiếp tục được thể hiện trong quan điểm chỉ đạo đầu tiên của dự thảo văn kiện Đại hội XIII của Đảng: Tư tưởng xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong giai đoạn tới là kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Cùng với thời gian, lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại cũng chứng minh rằng: Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh là không thể phủ nhận và đó là “một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”[4]. Vì thế, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) (Cương lĩnh 2011) của Đảng đã ghi rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động”[5]. Đó chính là thấm nhuần nguyên tắc: “Chỉ đảng nào được lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò người chiến sĩ tiền phong”[6]. Đồng thời cũng chính là sự lựa chọn/kiên định của Đảng Cộng sản Việt Nam xuyên suốt hành trình xây dựng và phát triển chứ không phải là “bắt chước làm theo Trung Cộng” như Phạm Trần và nhóm người suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ấu trĩ suy nghĩ và viết.

Hai là, kinh tế thị trường là thành quả của văn minh nhân loại được Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức sâu sắc và vận dụng một cách sáng tạo, đúng đắn, khoa học vào điều kiện cụ thể của Việt Nam để trở thành “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Vì thế, từ bỏ chế độ kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp, Đảng ta đã khẳng định “phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”[7], trong đó xác định rõ việc kết hợp chặt chẽ, hợp lý giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; đồng thời, nhấn mạnh vị trí, vai trò của con người là động lực và cũng là mục tiêu cao nhất của sự phát triển…

Đại hội XII của Đảng (2016) đã tiếp tục bổ sung và làm rõ: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”[8]. Bước đột phá khoa học về tư duy lý luận này của Đảng dựa trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm, kế thừa có chọn lọc thực tiễn phát triển của nền kinh tế thị trường trong lịch sử và xuất phát từ bản chất nhân văn của chủ nghĩa xã hội để khẳng định đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

CHỦ ĐỘNG PHÒNG, CHỐNG VÀ ĐẤU TRANH CHÔNG SUY THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ, ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG, “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA”

Những người nào – vì bất cứ lý do gì đã không chỉ giảm sút niềm tin vào lý tưởng cách mạng của người cộng sản, mơ hồ, mất cảnh giác mà còn thừa nhận/cổ súy cho các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận Đảng, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng, phủ định quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa… hòng chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thì cũng chính là những người đã suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Những đối tượng này dù ẩn danh hay chính danh, nấp dưới chiêu bài nào, dùng thủ đoạn gì thì cũng từng bước được nhận diện và chỉ rõ, vì đó là “những con sâu mọt” phá Đảng từ bên trong.

Việc chủ động phòng, chống và đấu tranh với các đối tượng này đòi hỏi các cấp ủy Đảng, cả hệ thống chính trị và mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi người dân không chỉ phải kiên định bản lĩnh chính trị, nâng cao sức đề kháng; tích cực phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về mặt tư tưởng, lý luận; rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng mà còn phải nâng cao cảnh giác trước những chiêu trò, thủ đoạn giả danh của họ nhằm bảo vệ Đảng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là rất quan trọng và cần thiết.

Cụ thể là:

Thứ nhất, cấp ủy các cấp và cả hệ thống chính trị cần quán triệt sâu sắc yêu cầu, tầm quan trọng của công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng nói chung, kiên định và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng – Kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội nói riêng. Trong mọi hoàn cảnh và mọi thời điểm, cần thấu triệt quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và luật pháp của Nhà nước trên tinh thần giữ vững tính Đảng, tính chính trị, tính khoa học, nguyên tắc thống nhất giữ lý luận và thực tiễn trong đấu tranh về tư tưởng, lý luận của Đảng.

Chú trọng công tác tư tưởng; trong đó, tiếp tục gắn thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Triển khai toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”trên cơ sở quán triệt sâu sắc và vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam.

Thứ hai, nâng cao nhận thức và phải nhận thức đúng, đầy đủ về mục tiêu, nguyên tắc, phương pháp luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để thực hiện tốt chỉ dẫn của V.I. Lênin: “Nhiệm vụ thứ nhất của bất cứ một chính đảng nào có trọng trách đối với tương lai là thuyết phục cho đa số nhân dân thấy được sự đúng đắn của cương lĩnh và sách lược của mình”[9]. Đồng thời, tiếp tục làm cho toàn Ðảng, toàn dân ngày càng nhận thức đầy đủ hơn, đúng đắn hơn, sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc trong Đảng, trong hệ thống chính trị và xã hội.

Chủ động và tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo để không chỉ đấu tranh phản bác có hiệu quả, kịp thời các quan điểm sai trái, thù địch, với các hình thức đa dạng, phong phú nhằm bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng mà còn phải phòng ngừa, ngăn chặn và kịp thời nhận diện, vạch trần tính chất phản khoa học, phản động trong những quan điểm, tư tưởng sai trái của những phần tử cơ hội, bất mãn chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, những người nhân danh yêu nước, dân chủ hòng chống Đảng Cộng sản Việt Nam, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng.

Thứ ba, phát huy vai trò, sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của các lực lượng làm công tác tư tưởng và sức mạnh tổng hợp của báo chí, truyền thông; kết hợp tuyên truyền miệng với các kênh thông tin khác và phát huy vai trò của internet, mạng xã hội, tạo thành thế trận nhiều tầng nấc, vững chắc để đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng nói chung, chống chủ nghĩa cơ hội nói riêng. Trong đó, sử dụng linh hoạt, đa dạng các hình thức, phương pháp đấu tranh trực tiếp và gián tiếp gắn với việc phát huy khả năng, thế mạnh của mỗi tổ chức, mỗi lực lượng trong tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước và trong đấu tranh bảo về nền tảng tư tưởng của Đảng, chống chủ nghĩa cơ hội, chống sự suy thoái, bất mãn chính trị…

Khắc phục kiểu đấu tranh một chiều, khuôn sáo theo công thức định sẵn, thoát ly các vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn gắn với chủ động phòng, chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, cơ hội, phản động trên trận địa tư tưởng hiệu quả và thiết thực. Đồng thời, trong mọi tình huống phải chủ động và kịp thời ngăn chặn các hoạt động liên lạc, chắp nối của các đối tượng cơ hội, của các thế lực thù địch trên mạng xã hội để vô hiệu hóa hoạt động tuyên truyền, kích động biểu tình, gây tâm lý hoang mang trong nhân dân nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phá hoại nền tảng tư tưởng, tinh thần của nhân dân ta.

Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, thực hiện kiểm soát quyền lực trong Đảng, trong hệ thống chính trị gắn liền với việc nâng cao tính chủ động, thiết thực, hiệu quả trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, bất mãn về chính trị của các phần tử biến chất khi họ lợi dụng những sơ hở, yếu kém trong công tác lãnh đạo, quản lý kinh tế – xã hội để kích động tâm lý bất mãn, chống đối, chia rẽ nội bộ, chia rẽ khối đoàn kết toàn dân, phá hoại sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội.

Tiếp tục thực hiện nghiêm Quy chế dân chủ ở cơ sở; Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội; Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Thông qua nhiều kênh thông tin, nhiều diễn đàn để không chỉ lắng nghe và tiếp nhận ý kiến góp ý, xây dựng của nhân dân mà còn kịp thời thông tin, định hướng thông tin để nhân dân nhận rõ âm mưu, thủ đoạn chống phá Đảng và chế độ của các thế lực thù địch. Cùng với đó, kịp thời nắm rõ tâm tư, nguyện vọng, tình hình chính trị, tư tưởng của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân để không chỉ uốn nắn những nhận thức lệch lạc mà còn góp phần ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng và trong xã hội.

Thứ năm, mỗi cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu nói riêng tiếp tục rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân gắn với việc thực hiện nghiêm Điều lệ Đảng, quy định về những điều đảng viên không được làm và các quy định về nêu gương. Nghiêm túc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, đoàn kết, thống nhất, tự phê bình và phê bình, kiểm tra và giám sát, thực hành dân chủ trong Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân gắn với thường xuyên sàng lọc đội ngũ, kiên quyết đưa những người không đủ tiêu chuẩn, những đảng viên thoái hoá về chính trị, tư tưởng, về đạo đức lối sống, vi phạm kỷ luật Đảng và pháp luật của Nhà nước ra khỏi Đảng.

Phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên nói chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu nói riêng trong việc nêu gương tự rèn luyện, tự bảo vệ mình trong sạch về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống. Đồng thời, tích cực đấu tranh phê phán những quan điểm, tư tưởng sai trái, phản động, âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, của những người nhân danh dân chủ, yêu nước song thực chất đang có những biểu hiện, hành động chống Đảng Cộng sản Việt Nam, chống chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và bôi đen, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng.

Cuối cùng, những cán bộ, đảng viên chân chính, cách mạng luôn một lòng vì nước, vì dân rất khác/khác biệt với những kẻ đã suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Vì thế, cán bộ, đảng viên và nhân dân đã, đang, sẽ nhận ra đúng bản chất của người cách mạng – những người vừa là người lãnh đạo vừa là người đày tớ trung thành của nhân dân như Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn để tin yêu, kính trọng và ủng hộ./.

TS. Văn Thị Thanh Mai   

Nguồn: Tạp chí Tuyên giáo

————

[1]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.2, tr.100

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.2, tr.2

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.16

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.88

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.88

[6]V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1975, t.6, tr.32

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.73

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.25

[9] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.36, tr.208