Nội hàm, bản chất nền kinh tế thị trường của nước ta đã được làm sáng tỏ, có điều chỉnh phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước nhằm hướng tới mục tiêu chung – cao nhất là xây dựng nước Việt Nam: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, mang lại hạnh phúc, ấm no cho toàn thể nhân dân. Mục tiêu này là phản ánh nguyện vọng của nhân dân và phù hợp với xu thế thời đại.
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM ĐÃ ĐƯỢC LÀM SÁNG TỎ, ĐIỀU CHỈNH PHÙ HỢP TỪNG GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XIII diễn ra vào thời điểm toàn Đảng và toàn dân ta thực hiện thắng lợi nhiều chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ đã được đề ra trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, đạt được nhiều thành quả rất quan trọng và tạo nhiều dấu ấn nổi bật, tô đậm thêm những thành tựu sau 35 đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước. Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới, quán triệt quan điểm chỉ đạo xuyên suốt: kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội… Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể để phấn đấu đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sẽ đưa nước ta trở thành nước phát triển với thu nhập cao. Nhằm hiện thực hóa mục tiêu đó, Báo cáo chính trị và báo cáo chuyên đề đã cụ thể hóa 12 định hướng chiến lược phát triển đất nước trong thời kỳ 2021 – 2030. Trong đó, một trong những định hướng nổi bật hàng đầu là: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững đất nước; hoàn thiện toàn diện đồng bộ thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa…”[1].
Trải qua nhiều nhiệm kỳ Đại hội, nội dung, mô hình “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của Đảng ngày càng được định hình rõ nét. Tại Đại hội IX, Đảng ta lần đầu tiên nêu khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đến Đại hội X và XI, tiếp tục được điều chỉnh, làm rõ hơn nội hàm “được sự dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”. Đại hội XII bổ sung, điều chỉnh thêm cho phù hợp yêu cầu của thực tiễn: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”[2]. Sự thay đổi ở đây là nhấn mạnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải được “vận hành đầy đủ, đồng bộ” theo các quy luật của kinh tế thị trường, hạn chế, đi đến xóa bỏ sự can thiệp hành chính, mang tính chất chủ quan của các cơ quan quản lý nhà nước, tôn trọng và thực hiện đầy đủ các quy luật kinh tế; coi kinh tế thị trường là cơ chế vận hành của toàn bộ nền kinh tế, quyết định việc phân bổ mọi nguồn lực đầu vào, đầu ra của quá trình sản xuất, kinh doanh. Mặt khác, để đáp ứng và phù hợp với thực tiễn, Đại hội xác định “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” nhưng phải “đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”.
Đến Đại hội XIII, mô hình kinh tế thị trường thể hiện rõ sự kế thừa, bổ sung, phát triển của Đảng. Lần này, mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”[3]. Đảng ta bổ sung đặc điểm “nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế” là phù hợp với thực tiễn quá trình hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng và yêu cầu hiện đại hóa nền kinh tế hiện nay.
Như vậy, nội hàm, bản chất nền kinh tế thị trường của nước ta đã được làm sáng tỏ, có điều chỉnh phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước nhằm hướng tới mục tiêu chung – cao nhất là xây dựng nước Việt Nam: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, mang lại hạnh phúc, ấm no cho toàn thể nhân dân. Mục tiêu này là phản ánh nguyện vọng của nhân dân và phù hợp với xu thế thời đại.
VỀ NHỮNG LUẬN ĐIỆU CŨ RÍCH VÀ KHIÊN CƯỠNG
Với mục tiêu chống phá cách mạng Việt Nam, chống phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta, các thế lực thù địch đã và đang tiếp tục xuyên tạc, hướng đến bác bỏ định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Họ cho rằng: kinh tế thị trường mang tính tự phát do đó sẽ phát triển không ổn định. Tính chất tư nhân của sản xuất do các chủ thể hoạt động cạnh tranh quyết liệt, không lành mạnh, nên thường xuyên tạo ra sự mất cân đối, bất hợp lý ở tầm vĩ mô, làm giảm hiệu quả trên quy mô nền kinh tế quốc dân. Họ cho rằng, phát triển kinh tế thị trường thì không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cụ thể là ở Việt Nam, chủ trương gắn kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa là không có cơ sở khoa học, bởi chúng đối lập nhau như nước với lửa, không thể dung hòa, không thể “ghép đôi”. Thậm chí, theo họ, sự kết hợp một cách “khiên cưỡng” đó đã dẫn đến tình trạng tụt hậu xa về kinh tế và càng làm càng thất bại. Cùng với đường lối sai lầm đó, họ thổi phồng rằng, những hiện tượng tham nhũng, tiêu cực, thất thoát tài sản, kiểu làm ăn kém hiệu quả sẽ đưa nước ta tới tình trạng “khủng hoảng toàn diện”.
Gần đây, trước và sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, trên một số diễn đàn, tiếp tục xuất hiện những luận điệu phủ nhận sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; hoặc cho rằng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một “khái niệm mơ hồ”, thực hiện nó thì nền kinh tế không phát triển… và “kiến nghị không nên để cụm từ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong văn kiện Đại hội XIII”. Sự thật là, họ đã cố tình xuyên tạc, làm ngơ với những nỗ lực, những kết quả mà nền kinh tế thị trường dưới sự định hướng, can thiệp của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đã mang lại. Chúng ta hoàn toàn có thể bác bỏ những luận điệu sai trái này bằng những luận cứ khoa học.
ĐẬP TAN LUẬN ĐIỆU CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH, PHẢN ĐỘNG
Về lý luận, trước hết, cần khẳng định rằng, kinh tế thị trường là sản phẩm của nhân loại, được hình thành, phát triển gắn liền với quá trình xã hội hóa sản xuất. Với những đặc trưng riêng, kinh tế thị trường có những ưu thế hơn hẳn so với kinh tế tự nhiên và cơ chế quản lí hành chính, bao cấp. Cơ chế thị trường rất năng động, đáp ứng nhanh nhất, tốt nhất các nhu cầu của sản xuất và đời sống, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao chất lượng sống của con người. Kinh tế thị trường sử dụng các nguồn lực một cách hiệu quả; duy trì động lực mạnh mẽ cải tiến kĩ thuật, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm. Đây là ưu điểm nổi bật của kinh tế thị trường. Mặt khác, do tính cạnh tranh cao nên kinh tế thị trường đã loại bỏ được nhanh chóng những nhân tố lạc hậu, không hiệu quả, khuyến khích các nhân tố tích cực, mở rộng quy mô hoạt động, sản xuất kinh doanh, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Như vậy, kinh tế thị trường là một thành quả – sản phẩm của nhân loại góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của nhân loại. Bởi vậy, bất kỳ nước nào, nhất là một nước đi sau, đang trong quá trình phát triển như Việt Nam, thì việc tận dụng những thành tựu của nhân loại để đẩy nhanh quá trình phát triển đất nước là một tất yếu.
Tuy nhiên, là một thực thể, kinh tế thị trường cũng có những khuyết tật, mặt trái, có tính tiêu cực.. , làm nảy sinh các vấn đề xã hội như: phân hóa giàu nghèo, tệ nạn xã hội, tình trạng cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trường; nảy sinh những vấn đề mang tính toàn cầu: khủng hoảng tài chính, tiền tệ, khủng hoảng lương thực, khủng bố quốc tế,… gây ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ đến các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam.
Những khuyết tật này là điều không mong muốn trong quá trình phát triển của các quốc gia; đặc biệt với Việt Nam, nó đối lập hoàn toàn với mục tiêu cụ thể của xã hội xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy, sự can thiệp, định hướng xã hội chủ nghĩa của Nhà nước vào nền kinh tế nhằm khắc phục những tác động tiêu cực, đảm bảo thực hiện thành công mục tiêu mà Đảng ta đã đề ra là điều không cần bàn cãi.
Thứ hai, những năm gần đây, căn cứ vào những nét tương đồng và khác biệt, tùy thuộc vào điều kiện lịch sử và đặc điểm của mỗi nước, sự vận hành kinh tế thị trường trên thế giới cũng được chia làm nhiều loại: mô hình kinh tế thị trường tự do (điển hình là Anh, Mỹ), mô hình kinh tế thị trường xã hội (Đức, Pháp, Thụy Điển), mô hình kinh tế thị trường nhà nước phát triển ở châu Á (Nhật Bản, Hàn Quốc…). Vận dụng phù hợp với định hướng chính trị của mình, Việt Nam lựa chọn “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Thứ ba, thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nhằm phục vụ mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thực tế đã chứng minh, quá trình phát triển của kinh tế thị trường tự do đã làm cho những khuyết tật của nó ngày càng phức tạp, trầm trọng, trở thành nhân tố cản trở sự phát triển của nền sản xuất, cản trở việc thực hiện mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì thế, việc “can thiệp” của nhà nước đối với nền kinh tế là cần thiết, tất yếu nhằm khắc phục các khuyết tật vốn có của cơ chế thị trường, đồng thời tạo môi trường thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển, định hướng nền kinh tế. Mặt khác, xu hướng toàn cầu hóa, phát triển dựa vào tri thức, sự xuất hiện của doanh nghiệp qui mô lớn, sự hình thành khu vực kinh tế nhà nước và sự “can thiệp” của nhà nước vào nền kinh tế với vai trò điều tiết, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển đồng bộ, ổn định, các thành phần kinh tế cạnh tranh lành mạnh, phát triển trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, trở thành đặc trưng chủ yếu của kinh tế thị trường hiện đại. Như vậy, việc “can thiệp” của nhà nước nhằm đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế thị trường là một tất yếu.
Về thực tiễn, từ năm 1986, đất nước ta bước vào công cuộc đổi mới sâu sắc và toàn diện, tạo động lực thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển. Sau 35 năm thực hiện cơ chế kinh tế mới, nền kinh tế – xã hội nước ta đã phát triển năng động, năng suất lao động tăng trưởng nhanh hơn, lợi ích của các chủ thể được đáp ứng, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Cụ thể là, Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp. Giai đoạn 2002-2019, GDP đầu người tăng 2,7 lần, đạt trên 2.700 USD năm 2019, với hơn 45 triệu người thoát nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh từ hơn 70% xuống còn dưới 6%. Số hộ nghèo hiện nay chủ yếu tập trung ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Một bằng chứng sinh động và thuyết phục là, năm 2020 là năm “bóng tối” bao phủ nền kinh tế thế giới, kể cả những nền kinh tế lớn, song nền kinh tế Việt Nam vẫn nổi lên như một điểm sáng đáng tự hào. Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 và thiên tai gây hậu quả nặng nề, nền kinh tế nước ta không những không bị suy thoái, mà tổng sản phẩm (GDP) trong nước vẫn tăng 2,91%, đưa Việt Nam vào nhóm nước có tăng trưởng cao nhất thế giới. Sự thành công đáng ghi nhận này, theo nhiều chuyên gia kinh tế là nhờ vào mô hình thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mô hình này thể hiện rõ tính chủ động, khả năng tự chủ, phản ứng chính sách và phản ứng thị trường có hiệu quả. Cùng với sự điều chỉnh chính sách kinh tế, sự thích ứng kịp thời, chúng ta đã rất thành công trong việc kiểm soát sự lây lan của dịch Covid-19. Với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quyền lực Nhà nước tập trung, thống nhất đã giúp cho chính quyền Trung ương có đủ sức mạnh và thẩm quyền để ban hành các quyết định quan trọng, vừa đảm bảo phòng chống dịch, vừa phát triển kinh tế trong điều kiện cho phép. Mặt khác, với mục tiêu hết sức nhân văn, đặt sức khỏe và tính mạng của người dân lên trên lợi ích kinh tế, sẵn sàng chấp nhận hy sinh một số lợi ích kinh tế là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Chính phủ Việt Nam. Nguyên tắc này phù hợp với lợi ích, nguyện vọng của đông đảo nhân dân, từ đó tạo được sự tin tưởng, đồng hành, ủng hộ tối đa của các tầng lớp nhân dân đối với các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.
Như vậy, việc can thiệp, định hướng xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế thị trường những năm qua đã mang lại những lợi ích rất thiết thực, cụ thể, hiệu quả, giúp cho nền kinh tế tránh được những rủi ro và tăng trưởng trong bối cảnh nhiều khó khăn, thách thức. Những con số biết nói, sự tiến bộ trên mọi mặt: kinh tế, xã hội, văn hóa giáo dục, y tế… chính là những minh chứng bác bỏ một cách thuyết phục sự xuyên tạc, phủ nhận vai trò điều tiết của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường. Vai trò quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, hệ thống pháp luật, chính sách, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đồng bộ, thống nhất đã thể hiện rõ tính ưu việt, tạo môi trường kinh doanh công khai, minh bạch, thuận lợi, tạo động lực phát triển kinh tế. Đó là một hiện thực không thể phủ nhận.
Ghi nhận thành công của Việt Nam trong công cuộc phát triển kinh tế và phòng chống đại dịch covid, hãng thông tấn xã quốc gia của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland (BBC) đã khẳng định: “Việt Nam đã xử lý kiên quyết, chặt chẽ và ngay từ đầu với đại dịch Covid-19, nhờ đó hạn chế thiệt hại ở mức thấp nhất. Như là một thắng lợi kép, Việt Nam đã phát triển kinh tế trở lại trong khi thế giới còn đầy rẫy khó khăn. Kết quả là, Việt Nam vượt qua Singapore và Malaysia để vào tốp 4 nền kinh tế hàng đầu Đông Nam Á, thậm chí Quỹ Tiền tệ quốc tế còn cho rằng Việt Nam đã ở trong tốp 3, vượt qua Philippines về mức độ thịnh vượng, và cả về tổng sản phẩm quốc nội thu nhập tính theo đầu người… Trung tâm Nghiên cứu kinh tế Nhật Bản (JCER) còn dự báo với khả năng hồi phục và bật dậy nhanh chóng sau dịch Covid-19, Việt Nam sẽ trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2023 và là nền kinh tế lớn thứ hai Đông Nam Á sau Indonesia vào năm 2035. Cũng là thời điểm Việt Nam sẽ vượt qua Đài Loan, theo JCER. Đấy không phải là sự so sánh quá lạc quan. Điều mà chúng tôi thấy được là Việt Nam đã không bị hụt hơi do hoàn cảnh và đó là tin tốt đối với một nền kinh tế vốn và vẫn còn đang ở trình độ thấp”[4].
Ngoài ra, vấn đề tạo việc làm cho người lao động, không phân biệt tầng lớp, tôn giáo, dân tộc, trình độ học vấn, giới tính…; xóa đói giảm nghèo; phát triển văn hóa, y tế, giáo dục, thể dục, thể thao đã được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm nhằm phát triển toàn diện con người, tạo động lực cho sự phát triển; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo vệ môi trường, tạo tiền đề để tăng trưởng bền vững. Tất cả những mục tiêu trên thể hiện bản chất định hướng xã hội chủ nghĩa, không đối đầu với kinh tế thị trường mà trái lại, tạo động lực vì sự phát triển bền vững, phát triển vì con người.
Có thể nói, những thành quả sau 35 năm đổi mới, thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã khẳng định đó là một quá trình tất yếu kinh tế, phù hợp với quy luật phát triển của thời đại và đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước. Thành quả đó đã được thế giới ghi nhận.
Những kết quả đạt được thông qua các con số thống kê nói trên, cùng với những nhận định đánh giá khách quan của các tổ chức quốc tế, cơ quan thông tấn quốc tế đã minh chứng cho hiệu quả của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam và khẳng định “lời khuyên”, những luận điệu muốn Việt Nam từ bỏ bản chất định hướng xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế thị trường là hoàn toàn không có cơ sở, cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Để nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục thành công, hiện nay, Đảng ta vẫn tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo với những định hướng, nhiệm vụ cụ thể như: hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, điều chỉnh, bổ sung hệ thống hành lang pháp lý…; đặc biệt luôn bám sát thực tiễn để đổi mới, sáng tạo. Kiên trì theo đuổi mục tiêu, đặt lợi ích của nhân dân là tối thượng, với mục tiêu xuyên suốt mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã chỉ ra: “Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế”[5] và “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển”[6] sẽ là những nguyên tắc bất di bất dịch đảm bảo thực hiện thành công nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đưa đất nước phát triển, “sánh vai với các cường quốc năm châu” như Bác Hồ hằng mong ước. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và khát vọng vì một Việt Nam hùng cường của dân tộc Việt Nam, chúng ta tin tưởng rằng Việt Nam sẽ thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đề ra, đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển thu nhập cao vào năm 2045./.
Trung tá, PGS.TS Bùi Thị Tỉnh, Phó Trưởng khoa Triết học và Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị Công an nhân dân
Thượng úy, ThS Nguyễn Thị Phương, giảng viên khoa Triết học và Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị Công an nhân dân
—————————————–
http://tuyengiao.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/mo-hinh-kinh-te-thi-truong-the-hien-ro-su-ke-thua-bo-sung-phat-trien-cua-dang-cong-san-viet-nam-133415
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập 1, tr. 37.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 102.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tập 1, tr. 128
[4]https://www.qdnd.vn/chong-dien-bien-hoa-binh/phat-trien-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-la-lua-chon-dung-cua-viet-nam-649445
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, H à Nội, 1987, tr. 86.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 113.