ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN
Kỷ niệm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam
Quân đội ta từ nhân dân mà ra, được Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức xây dựng, giáo dục, rèn luyện. Chặng đường anh hùng trong 65 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam đã tô thắm lịch sử dựng nước và giữ nước vẻ vang của dân tộc, làm rạng ngời thời đại Hồ Chí Minh.
I. 65 NĂM XÂY DỰNG, CHIẾN ĐẤU VÀ TRƯỞNG THÀNH CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM (22/12/1944 – 22/12/2009)
1. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời và cùng toàn dân tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công
Trong Chính cương vắn tắt, Luận cương Chính trị tháng 10/1930, Đảng ta đã khẳng định con đường giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc phải tổ chức ra quân đội công nông để giành chính quyền và giữ chính quyền. Vì vậy, ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, các tổ chức vũ trang lần lượt được hình thành là Đội tự vệ đỏ (xích đỏ) trong cao trào Xô viết – Nghệ Tĩnh và cao trào cách mạng (1930 – 1931). Những năm 1940 – 1945, các đội du kích Bắc Sơn (Lạng Sơn), du kích Nam Kỳ, đội du kích Ba Tơ (Trung Kỳ), đội du kích Pắc Bó (Cao Bằng), Cứu Quốc Dân được hình thành. Sự phát triển mạnh mẽ, rộng khắp của phong trào đấu tranh cách mạng đòi hỏi cách mạng Việt Nam lúc này phải có một đội quân chủ lực thống nhất, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Cuối tháng 10/1944, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ Trung Quốc trở về Hà Quảng, Cao Bằng. Sau khi phân tích tình hình cách mạng trong nước, Người trực tiếp giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp tập hợp những cán bộ, chiến sỹ anh dũng nhất, những vũ khí tốt nhất, tổ chức thành một đội vũ trang để hoạt động và lập đội quân giải phóng.
Căn cứ chỉ dẫn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đồng chí Võ Nguyên Giáp cùng với đồng chí Lê Quảng Ba họp bàn thống nhất tổ chức 1 trung đội, 3 tiểu đội, lực lượng chủ yếu lấy từ các đội vũ trang châu Hà Quảng, Hòa An, Nguyên Bình, Ngân Sơn… và một số đồng chí đã từng học quân sự ở nước ngoài về.
Theo Chỉ thị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được thành lập. Tham dự Lễ tuyên thệ thành lập Đội Tuyên truyền giải phóng quân tại khu rừng giữa tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám (nay thuộc tỉnh Cao Bằng) có 34 chiến sĩ, được chia thành 03 tiểu đội. Đồng chí Võ Nguyên Giáp chủ trì buổi thành lập và thay mặt Đoàn thể đọc diễn văn tuyên bố thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Đồng chí Hoàng Sâm được cử làm Đội trưởng. Đồng chí Xích Thắng (Dương Mạc Thạch) làm Chính trị viên. Đồng chí Hoàng Văn thái phụ trách công tác kế hoạch – tình báo.
Thực hiện lời dạy của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc: “Trong một tháng phải có hoạt động, trận đầu nhất định phải thắng”, ngày 25/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân tiến công đồn Phai Khắt; ngày 26/12/1944 tiến công đồn Nà Ngần. Cả hai trận đánh đầu tiên, Quân đội ta đều giành thắng lợi, tiêu diệt và bắt sống nhiều tù binh, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng của địch mở ra truyền thống quyết chiến, quyết thắng, biết đánh, biết thắng kẻ thù xâm lược của Quân đội ta. Tháng 3/1945, Thường vụ Trung ương họp và ra chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Tháng 4/1945, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định thống nhất lực lượng vũ trang cả nước (Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, Cứu quốc dân…) thành Việt Nam giải phóng quân; đẩy mạnh tuyên truyền xung phong có vũ trang phá kho thóc của Nhật để cứu đói cho nhân dân; xây dựng các đội tự vệ vũ trang, du kích cứu quốc; phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa cách mạng. Từ tháng 4/1945, cao trào kháng Nhật cứu nước, phong trào vũ trang khởi nghĩa, khởi nghĩa từng phần đã giành được thắng lợi ở nhiều nơi. Ngày 15/5/1945, sau buổi lễ thống nhất tại Định Biên Thượng, Định Hóa, Thái Nguyên, đồng chí Võ Nguyên Giáp trở thành Tư lệnh các lực lượng vũ trang thống nhất, mang tên Việt Nam giải phóng quân.
Trên cơ sở đánh giá thời cơ và tình hình cách mạng trong nước, Đảng ta đã lãnh đạo các tầng lớp nhân dân đồng loại đứng dậy tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền. Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, cuộc Tổng khởi nghĩa của nhân dân ta đã giành thắng lợi hoàn toàn.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Việt Nam giải phóng quân được đổi tên thành Vệ Quốc dân. Năm 1946, Vệ Quốc dân đổi tên thành Quân đội Quốc gia Việt Nam. Năm 1950, đổi tên thành Quân đội nhân dân Việt Nam.
Ngày 22/12/1944, ngày thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được lấy làm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam. Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân là đội quân chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, “đội quân đàn anh”, “đội quân khởi điểm của giải phóng quân”.
2. Quân đội nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954)
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đứng trước một tình thế rất phức tạp và chồng chất khó khăn. Cùng một lúc, chúng ta phải đối phó với cả “giặc đói”, “giặc dốt”, “giặc ngoại xâm”. Ở miền Bắc, gần 20 vạn quân Tưởng vào giải giáp phát xít Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra. Ở miền Nam, thực dân Pháp được quân Anh giúp sức đã trắng trợn gây hấn ở Nam Bộ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các lực lượng vũ trang và nhân dân ta nhất tề đứng dậy hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngày 19/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Với tinh thần “Cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh”, cuộc chiến đấu ở thủ đô Hà Nội và các thành phố, thị xã đã tiêu hao, tiêu diệt và giam chân một lực lượng lớn quân địch, tạo điều kiện cho cả nước chuyển vào cuộc kháng chiến lâu dài.
Ngày 07/10/1947, Pháp huy động hơn 12 ngàn quân có máy bay, tàu chiến hỗ trợ, mở cuộc tiến công lớn lên Việt Bắc, hòng tiêu diệt cơ quan lãnh đạo kháng chiến và bộ đội chủ lực của ta. Quân ta đã liên tiếp phản công tiêu diệt địch, làm nên thắng lợi của Chiến dịch Việt Bắc. Đây là thắng lợi quy mô lớn đầu tiên của quân và dân ta, làm phá sản chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp.
Tháng 6/1950, ta mở Chiến dịch Biên Giới nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng một phần biên giới, mở đường thông với các nước xã hội chủ nghĩa, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Vừa chiến đấu, vừa xây dựng, từ năm 1949 – 1952, Quân đội ta đã thành lập được nhiều đại đoàn chủ lực, như: Đại đoàn 304, 308, 316, 325 và Đại đoàn công pháo 351. Tháng 9/1953, Bộ Chính trị quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 – 1954. Với 5 đòn tấn công chiến lược, quân và dân ta đã tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn, nắm quyền chủ động trên các chiến trường Đông Dương và làm phá sản âm mưu tập trung lực lượng cơ động của Na-va, buộc chúng phải căng ra đối phó ở khắp nơi. Kế hoạch của Na-va bắt đầu bị phá sản.
Trước thời cơ thuận lợi, ngày 06/12/1953, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau 55 ngày đêm chiến đấu vô cùng dũng cảm, kiên cường, mưu trí, sáng tạo, quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ cùng với thắng lợi trên các chiến trường khác đã góp phần giáng đòn quyết định làm thất bại kế hoạch Na-va, đồng thời có ý nghĩa quyết định kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, trực tiếp dẫn đến thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương, buộc pháp phải công nhận độc lập dân tộc, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Chiến thắng Điện Biên Phủ chấm dứt hoàn toàn ách xâm lược của thực dân Pháp trên đất nước ta và các nước trên bán đảo Đông Dương, tạo cơ sở và điều kiện vững chắc để nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, thống nhất Tổ quốc đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
3. Quân đội nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1945 – 1975)
3.1. Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh chính trị ở miền Nam, “Đồng Khởi” làm thất bại một hình thức thống trị điển hình bằng chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ (1954 – 1960)
Sau năm 1954, miền Bắc hừng hực khí thế cách mạng bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, cải cách ruộng đất, phát triển sản xuất, khôi phục kinh tế đã tạo ra những chuyển biến to lớn về kinh tế, chính trị, xã hội, là chỗ dựa và hậu phương lớn của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân.
Ở miền Nam, Mỹ ra sức xây dựng ngụy quân, chỉ huy chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áo đẫm máu những người yêu nước, hô hào “Bắc tiến”, “lấp sông Bến Hải”; mở các chiến dịch lớn đánh vào nhân dân, trả thù những người kháng chiến, thẳng tay thi hành cái gọi là “Quốc sách tố cộng, diệt cộng”, “Luật 10/59”…
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 15 (tháng 1/1959) xác định con đường, mục tiêu, phương pháp cách mạng ở miền Nam, mối quan hệ giữa hai chiến lược cách mạng ở hai miền Nam – Bắc; giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngày 28/8/1959 nhân dân nhiều xã trong huyện Trà Bồng (tỉnh Quảng Ngãi) nổi dậy giành chính quyền. Ngày 17/01/1960, nhân dân các huyện Mỏ Cày, Minh Tân, Thạnh Phú tỉnh Bến Tre nhất loạt nổi dậy, phá thế kìm kẹp, tạo nên phong trào “Đồng Khởi” lan rộng ra ở nhiều tỉnh Nam Bộ, Khu 5.
Từ phong trào “Đồng Khởi”, lực lượng vũ trang và hệ thống chỉ huy quân sự các cấp của ta từng bước hình thành. Ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập.
Miền Bắc mở đường bộ 559, đường biển 759 chi viện cho chiến trường miền Nam. Cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam được phát động một cách độc đáo, khéo léo, phù hợp với thời cơ lịch sử. Cách mạng miền Nam đã vượt qua giai đoạn khó khăn, chuyển hẳn sang thế tiến công. Từ cuối năm 1960, hình thức thống trị bằng chính quyền tay sai độc tài phát xít Ngô Đình Diệm bị thất bại, đế quốc Mỹ vội vàng thay đổi, chuyển sang dùng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”.
3.2. Đánh thắng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ ở miền Nam, tiếp tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1961 đến giữa 1965)
Để đối phó với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng miền Nam, đế quốc Mỹ đã thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”. Chúng đưa tiền của, vũ khí và cố vấn vào miền Nam, chỉ huy quân đội ngụy tiến hành chiến tranh, càn quét, dồn dân, theo chiến thuật “tát nước bắt cá”.
Với kinh nghiệm đấu tranh, quân và dân miền Nam đã sáng tạo ra hình thức tiến công “hai chân (quân sự, chính trị), ba mũi (quân sự, chính trị, binh vận), ba vùng (rừng núi, đồng bằng, thành thị)”, tiến hành thắng lợi một số chiến dịch quy mô nhỏ và vừa (Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài), tiêu diệt nhiều sinh lực và phương tiện kỹ thuật của địch, đẩu ngụy quyền Sài Gòn rơi vào tình trạng khủng hoảng triền miên. Từ tháng 11/1963 đến tháng 6/1965, đã xảy ra 14 lần đảo chính và phản đảo chính ở miền Nam. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Manara từ miền Nam Việt Nam về báo cáo trước Nhà Trắng và Quốc hội Mỹ rằng: “Quân lực Việt Nam cộng hòa đã không còn đủ sức chiến đấu, chế độ Sài Gòn đã thất bại”.
Trước những thất bại liên tiếp của ngụy quân, ngụy quyền ở miền Nam, nhằm cứu vãn tình thế, Mỹ dựng nên sự kiện “Vịnh Bắc Bộ”. Ngày 05/8/1964, Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân, đánh ồ ạt ở các khu căn cứ sông Gianh (Quảng Bình), Cửa Hội (thành phố Vinh), Lạch Trường (Thanh Hóa), Bãi Cháy (Quảng Ninh). Các đơn vị hải quân, phòng không, dân quân tự vệ đã nâng cao cảnh giác, hiệp đồng chặt chẽ, mưu trí dũng cảm, chiến đấu ngoan cường, bắn rơi nhiều máy bay, bắt sống nhiều giặc lái Mỹ. Ngày 05/8 trở thành ngày truyền thống đánh thắng trận đầu của Bộ đội Hải quân nhân dân Việt Nam.
3.3. Cả nước có chiến tranh, đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và chiến tranh pháp hoại miền Bắc lần thức nhất của đế quốc Mỹ, mở ra giai đoạn “vừa đánh vừa đàm” (giữa 1965 đến 1968)
Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” bị phá sản, đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”; sử dụng quân Mỹ làm lực lượng cơ động chủ yếu để tiêu diệt bộ đội chủ lực ta; sử dụng quân ngụy làm lực lượng chiếm đóng, bình định, kìm kẹp nhân dân hòng đánh bại cách mạng miền Nam. Từ giữa năm 1965 đến 1967, chúng đưa vào miền Nam hơn nữa triệu quân Mỹ và quân đội một số nước chư hầu, đồng thời sử dụng không quân và hải quân mở chiến dịch “Sấm rền”, đánh phá ác liệt nhằm “đưa miền Bắc trở lại thời kỳ đồ đá”, ngăn chặn chi việt từ miền Bắc và quốc tế vào miền Nam.
Quân và dân miền Bắc đã anh dũng chiến đấu, đánh trả không quân, hải quân địch, giành những thắng lợi lớn. Trong 4 năm (1964 – 1968), quân và dân miền Bắc đã bắn rơi 3.243 máy bay các loại, bắt sống nhiều giặc lái, bắn chìm và bắn cháy 143 tàu chiến.
Hội nghị lần thứ 11 (3/1965), lần thứ 12 (12/1965), Trung ương Đảng hạ quyết tâm động viên lực lượng cả nước kiên quyết đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Ngày 17/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi lịch sử : “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm, hoặc lâu hơn nữa, Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.
Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” miền Bắc đã phát động nhiều phong trào thi đua ái quốc, “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”, “Tay búa, tay súng” của công nhân, “Ba quyết tâm” của tri thức tạo nên ý chí mới, sức mạnh mới cỗ vũ toàn dân đánh giặc.
Trên chiến trường miền Nam, vừa xây dựng, vừa chiến đấu, lực lượng vũ trang quân giải phóng đã tổ chức các đợt tiến công, bẻ gẫy nhiều cuộc hành quân quy mô lớn của Mỹ – Ngụy. Mở đầu là chiến thắng Núi Thành, Quảng Nam (26/5/1965), tiếp đó là chiến công vang dội đập tan hai cuộc phản công chiến lược mùa khô (1965 – 1966, 1966 – 1967) làm thất bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ.
Thực hiện chủ trương của Đảng, quân và dân ta mở cuộc Tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968, nhằm giáng một đòn quyết liệt và ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Cuộc tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 của quân và dân ta thực sự là “một đòn sét đánh” đối với bọn trùm xâm lược Mỹ, làm chấn động dư luận thế giới.
Thắng lợi của cuộc tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968 làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Pari. Sự nghiệp cách mạng chính nghĩa của dân tộc ta đã có điều kiện mở ra mặt trận tiến công mới về ngoại giao “vừa đánh, vừa đàm”.
3.4. Đánh thắng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và cuộc tập kích bằng không quân, hải quân lần thứ hai của đế quốc Mỹ vào miền Bắc (từ năm 1969 đến cuối 1973).
Thất bại trên chiến trường miền Nam, đế quốc đã nham hiểm thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, dùng người Việt đánh người Việt, mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương. Quân và dân ta đã phối hợp với quân đội và nhân dân Lào, Campuchia, đánh địch trên khắp chiến trường, đập tan quá trình tiến công, phản kích bằng các cuộc hành quân lớn của địch.
Đầu năm 1972, quân và dân ta mở cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam, làm thay đổi so sánh lực lượng và thay đổi cục diện chiến tranh, dồn Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn vào thế yếu trầm trọng hơn.
Với tinh thần dũng cảm, bằng cách đánh mưu trí, linh hoạt, quân và dân miền Bắc đã đánh thắng cuộc tập kích chiến lược lần thứ 2 bằng B52 của Mỹ, lập nên trận “Điện Biên Phủ trên không” tại bầu trời Hà Nội bắn rơi hơn 600 máy bay, trong đó có chiếc thứ 4.000 bị bắn rơi trên miền Bắc, bắn chìm và bắn cháy gần 100 tàu chiến Mỹ.
Thắng lợi to lớn của quân và dân ta trên cả hai miền Nam – Bắc, buộc Mỹ phải ký “Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam” (27/1/1973), cam kết tôn trọng độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chấm dứt dính líu về quân sự, rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền Nam.
3.5. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc (cuối năm 1973 đến 30/4/1975).
Hiệp định Pari được ký kết, nhưng với bản chất ngoan cố, đế quốc Mỹ không chịu từ bỏ âm mưu duy trì chế độ thực dân mới, chia cắt lâu dài đất nước ta. Chúng tăng cường viện trợ quân sự, điều khiển chính quyền của Nguyễn Văn Thiệu, ra sức củng cố ngụy quân, ngụy quyền, mở các cuộc hành quân “tràn ngập lãnh thổ” lấn chiếm vùng giải phóng.
Nắm được âm mưu của địch, tại Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10/1974 và đầu năm 1975, Đảng ta đã đánh giá so sánh lực lượng và đề ra quyết tâm giải phóng miền Nam. Đề giành thắng lợi quyết định, chúng ta đã tập trung xây dựng các đơn vị chủ lực Quân đoàn 1, 2, 3, 4 và Đoàn 232 đánh dấu bước phát triển mới của Quân đội ta cả về quy mô tổ chức, trang bị, vũ khí, kỹ thuật, có đủ khả năng mở các chiến dịch với quy mô lớn trên các hướng chiến lược, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giải phóng miền Nam.
Với thế lực mới, quân và dân ta đã chủ động tiến công giải phóng Phước Long (06/1/1975). Ngày 04/3/1975, bí mật, bất ngờ mở chiến dịch Tây Nguyên. Ngày 10/3/1975, giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột. Tiếp đó từ ngày 14/3/1975 đến ngày 03/4/1975, quân ta tiến công tiêu diệt nhiều vị trí quan trọng giải phóng hoàn toàn tỉnh Kon Tum, Gia Lai và toàn bộ Tây Nguyên. Ngày 19/3/1975, quân và dân ta tiến công giải phóng Quảng Trị. Ngày 24/3/1975, giải phóng Quảng Nam, Quảng Ngãi. Ngày 25/3/1975, giải phóng Huế. Ngày 29/3/1975, giải phóng Đà Nẵng. Ngày 01/4/1975, giải phóng Bình Định, Phú Yên. Ngày 03/4/1975, giải phóng Khánh Hòa nối liền vùng giải phóng từ Tây Nguyên, Trị Thiên và các tỉnh Trung Bộ.
Trên cơ sở những thắng lợi có ý nghĩa quyết định trên chiến trường, ngày 14/4/1975 Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng Sài Gòn – Gia Định và giải phóng hoàn toàn miền Nam. Thực hiện tư tưởng chỉ đạo “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, các đơn vị chủ lực của quân đội ta thực hiện cuộc hành quân thần tốc, từ các hướng tiến về giải phóng Sài Gòn. Bằng sức mạng tiến công mạnh mẽ của 05 cánh quân chủ lực, 17h ngày 26/4/1975, các lực lượng của ta trên tất cả 5 hướng chiến dịch đều nổ súng tiến công.
Ngày 29/4/1975, quân và dân ta tiến hành tổng tiến công trên toàn mặt trận. Quân địch hoang mang cao độ, tan rã, rút chạy, đầu hàng từng bộ phận. Tướng, tà ngụy trang nhau di tản, chỉ huy bị rối loạn. Quần chúng nhân dân ở từng hướng được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang nổi dậy giành chính quyền làm chủ, truy quét tàn quân địch.
Ngày 30/4/1975, các binh đoàn chủ lực của quân đội ta đột kích, thọc sâu kết hợp với lực lượng bên trong nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu trọng yếu của địch ở nội thành. Binh đoàn hỗn hợp của Quân đoàn 2 chiếm Dinh Độc Lập lúc 10 giờ 45 phút, bắt toàn bộ ngụy quyền trung ương, buộc chúng tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, cờ giải phóng đã tung bay trước tòa nhà chính “Dinh Độc Lập”. Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng. Trong hai ngày 30/4 và mùng 01/5/1975, bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long, các Quân khu 8, 9 nắm thời cơ phát động quần chúng nhân dân nổi dậy, tiêu diệt và làm tan rã hàng ngũ địch, giải phóng hoàn toàn các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long, giải phóng vùng biển, đảo của Tổ quốc. Hơn một triệu quân ngụy và cả bộ máy ngụy quyền bị đập tan, chế độ thực dân mới do đế quốc Mỹ xây dựng ở miền Nam đã hoàn toàn sụp đổ. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 của quân và dân ta toàn thắng, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước sau nhiều năm bị chia cắt nay đã thống nhất. Ước nguyện của Bác Hồ năm 1969: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” đã trở thành hiện thực.
4. Quân đội nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (1975 – 2009)
4.1.Khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân, đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên trong giai đoạn mới
Sau 30 năm chiến tranh, đất nước bị tàn phá nặng nề. Nhiệm vụ của Quân đội được Trung ương Đảng nêu rõ: “Ra sức bảo vệ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, … bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, biên giới và hải đảo của nước Việt Nam thống nhất”. Đồng thời “tích cực tham gia sản xuất, góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”.
Trong giai đoạn cách mạng mới của đất nước, Quân đội ta đã thể hiện rõ bản lĩnh chính trị trên mặt trận xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đề ra phương hướng nhiệm vụ xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng: bước đầu giữ quân số thích hợp; thi hành Luật nghĩa vụ quân sự kết hợp với nghĩa vụ lao động; triển khai quân đội làm hai nhiệm vụ chiến lược sẵn sàng chiến đấu và xây dựng kinh tế; tăng cường bố trí phòng thủ, sẵn sàng chiến đấu; nâng cao chất lượng cán bộ, chiến sĩ; xây dựng nề nếp chỉ huy chặt chẽ để nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu; từng bước tự lực sản xuất được một số loại vũ khí cần thiết. Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó; Bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa và an ninh xã hội; duy trì trật tự kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững chính trị đất nước; ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.
Trên mặt trận xây dựng kinh tế, Quân đội ta đã thực hiện tốt chủ trương của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng chuyển một phần lớn quân số sang làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế. Cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách, tích cực lao động sản xuất, tham gia xây dựng tuyến đường sắt thống nhất Bắc – Nam; khai hoang xây dựng các vùng kinh tế nông nghiệp, lâm nghiệp; xây dựng các công trình thủy lợi, đường giao thông; khai thác và chế biến hải sản; xây dựng cơ bản, sản xuất vật liệu xây dựng… góp phần nâng cao một bước đời sống vật chất, tinh thần, đảm bảo nơi ăn, ở, làm việc cho bộ đội, tăng thêm của cải cho xã hội.
4.2. Cùng toàn dân đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược biên giới và làm tròn nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia.
Tháng 4/1977, tập đoàn Pôn Pốt – Iêngxari đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược biên giới Tây Nam nước ta. Mùa khô năm 1978, chúng huy động nhiều sư đoàn mở cuộc tiến công trên toàn tuyến biên giới Tây Nam, sẵn sàng đối phó với các tình huống, kiên quyết đánh bại mọi kẻ thù xâm lược, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng của nhân dân ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta trên toàn tuyến biên giới Tây Nam đẩy mạnh phản công và tiến công, đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của tập đoàn phản động Pôn Pốt – Iêngxari, đuổi chúng về bên kia biên giới.
Với sự giúp đỡ to lớn của Quân tình nguyện Việt Nam, ngày 07/01/1979, các lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Campuchia đã đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt – Iêngxari, hồi sinh, tái thiết đất nước.
Ở biên giới phía Bắc, quân và dân ta đã giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới thiêng liêng của Tổ quốc.
4.3. Quân đội nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp, mau lẹ, khó lường, tình hình trong nước bên cạnh những thuận lợi cơ bản cũng có những khó khăn, thách thức mới. Quân đội nhân dân Việt nam đã tỏ rõ bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và ý chí cách mạng tiến công, cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chủ động và kiên quyết thực hiện tốt nhiệm vụ cấp bách hàng đầu là phòng chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội, phản động bảo vệ vững chắc chủ quyền, lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ và thành quả cách mạng của nhân dân.
Cùng với nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, Quân đội đã tham gia phòng chống thiên tai, bảo lụt, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, hình ảnh và phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” ngày càng tỏa sáng.
Trong nhiệm vụ xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân, Quân đội ta đã giữ vững vai trò là lực lượng nòng cốt, tích cực tham gia củng cố, xây dựng cơ sở chính trị địa phương, nhất là vùng sâu, vùng xa, địa bàn biên giới, hải đảo.
Trong công tác xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân đã tập trung nâng cao một bước chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, luôn luôn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Những năm gần đây, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân đã thực hiện tốt công tác huấn luyện, bám sát phương châm “cơ bản, thiết thực, vững chắc” sát với yêu cầu, nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, phù hợp với biên chế tổ chức, trang bị và cách đánh của ta; coi trọng nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ sĩ quan; đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu khoa học quân sự và tiến độ nghiên cứu biên soạn hoàn thiệu hệ thống giáo trình, giáo khoa, tài liệu huấn luyện thống nhất trong quân đội, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Đối với nhiệm vụ lao động sản xuất, xây dựng kinh tế, Quân đội ta đã đạt được những thành tựu mới trên tất cả các lĩnh vực: nghiên cứu khoa học, chế tạo, sản xuất, sửa chữa, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật và lĩnh vực quốc phòng. Các ngành công nghiệp quốc phòng, hậu cần, kỹ thuật, dịch vụ… của Quân đội từng bước đổi mới và phát triển. Quân đội ta đã sản xuất được nhiều trang bị, vũ khí kỹ thuật, đồ dùng thiết yếu phục vụ cho nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và sản xuất các mặt hàng dân dụng phục vụ đời sống của bộ đội và nhân dân. Nhiều doanh nghiệp trong quân đội đã khẳng định vị thế trên thị trường như: Công ty Tân cảng Sài Gòn, Công ty Viễn thông Quân đội, Tổng Công ty bay dịch vụ Việt Nam, Tổng Công ty Xây dựng đường Trường Sơn, Binh đoàn 15… góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế của đất nước, thực hiệm giảm quân số, từng bước điều chỉnh, bố trí lực lượng, tạo thế chủ động trên các địa bàn chiến lược, giải quyết chính sách hậu phương, quân đội.
5. Truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam
65 năm qua, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, được sự quan tâm giúp đỡ tận tình của các Bộ, ban, ngành, đoàn thể Trung ương và các địa phương, sự chăm sóc, nuôi dưỡng, đùm bọc của nhân dân cả nước, Quân đội nhân dân Việt Nam vừa xây dựng, vừa chiến đấu và trưởng thành, xây đắp nên truyền thống rất vẻ vang.
Một là, trung thành vô hạn với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, với Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Hai là, quyết chiến, quyết thắng, biết đánh và biết thắng.
Ba là, gắn bó máu thịt với nhân dân, quân và dân một ý chí.
Bốn là, đoàn kết nội bộ, cán bộ, chiến sĩ bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, thương yêu giúp đỡ nhau, trên dưới đồng lòng, thống nhất ý chí và hành động.
Năm là, kỷ luật tự giác nghiêm mình.
Sáu là, độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, cần kiệm xây dựng quân đội, xây dựng đất nước, tôn trọng và bảo vệ của công.
Bảy là, lối sống trong sạch, lành mạnh, có văn hóa, trung thực, khiêm tốn, giản dị, lạc quan.
Tám là, luôn luôn nêu cao tinh thần ham học, cầu tiến bộ.
Chín là, đoàn kết quốc tế trong sáng, thủy chung, chí nghĩa, chí tình.
II. HAI MƯƠI NĂM THỰC HIỆN NGÀY HỘI QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN (22/12/1989 – 22/12/2009)
Ngày 17/10/1989, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) quyết định lấy ngày 22/12 là ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, đồng thời là Ngày Hội Quốc phòng toàn dân. Hai mươi năm thực hiện Ngày Hội Quốc phòng toàn dân, đã thu được những thành tựu quan trọng sau đây:
Một là, giữ vững độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo đảm môi trường, ổn định hòa bình và an ninh cho sự phát triển đất nước; làm thất bại nhiều âm mưu thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; góp phần quan trọng vào quá trình đổi mới đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt nam trên trường quốc tế.
Hai là, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc được tăng cường, tăng thêm khả năng ngăn chặn và loại trừ nguy cơ chiến tranh và khả năng đối phó thắng lợi các tình huống chiến tranh và các tình huống xâm phạm an ninh quốc gia, nếu xảy ra.
Ba là, nâng cao ý thức trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc của toàn xã hội và sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân.
Bốn là, hình thành thế chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới. Thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc được triển khai rộng khắp, chặt chẽ và liên hoàn; thế trận lòng dân được củng cố.
Năm là, lực lượng vũ trang mà nòng cốt là Quân đội nhân dân có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu ngày càng cao, phát huy được vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình đổi mới, sức mạnh tổng hợp của các lực lượng vũ trang đã được nâng lên một bước, đã kịp thời ngăn chặn, làm thất bại các vụ gây rối, bạo loạn chính trị, vô hiệu hóa hoạt động của các đối tượng phản động trong và ngoài nước; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội đồng thời trực tiếp tham gia có hiệu quả vào việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, xây dựng đất nước.
III. XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM CÁCH MẠNG, CHÍNH QUY, TINH NHUỆ, TỪNG BƯỚC HIỆN ĐẠI; XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN VỮNG MẠNH ĐÁP ỨNG YÊU CẦU NHIỆM VỤ TRONG THỜI KỲ MỚI
Trong những năm tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Vai trò siêu cường của Mỹ suy giảm và xu thế hình thành thế giới đa cực ngày càng rõ sẽ tác động lớn đến tình hình chính trị và kinh tế thế giới.
Nước ta sau nhiều năm liên tục đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, gần đây nhịp độ tăng trưởng kinh tế có chậm lại, nhưng tình hình chính trị của nước ta ổn định, vai trò, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. Bên cạnh những thuận lợi cơ bản, nước ta cũng đứng trước những mặt không thuận, trong đó các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội chính trị gia tăng các hoạt động chống phá Đảng và Nhà nước ta, đẩy mạnh thực hiện “âm mưu diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ; lợi dụng những vấn đề tôn giáo, dân tộc, dân chủ, nhân quyền… để lái nước ta đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân, đòi hỏi các lực lượng vũ trang nói chung và Quân đội nói riêng phải tiếp tục nâng cao chất lượng tổng hợp, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu; xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Cụ thể là:
1. Xây dựng đất nước phải gắn chặt với bảo vệ Tổ quốc
Quán triệt và thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ xây dựng đất nước phải đi đôi với bảo vệ Tổ quốc, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa. Mỗi cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt nam phải góp phần tích cực cùng với toàn Đảng, toàn dân làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, chủ động đối phó thắng lợi với mọi tình huống có thể xảy ra.
2. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và nâng cao hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước. Tiếp tục củng cố và hoàn thiện nền quốc phòng toàn dân trên từng địa bàn tỉnh, thành phố. Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng – an ninh. Đầu tư thỏa đáng cho công nghiệp quốc phòng. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra.
3. Xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới
Xây dựng Quân động nhân dân vững mạnh về chính trị, tư tưởng. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng huấn luyện, trình độ, sẵn sàng chiến đấu, phòng chống bão lụt, tìm kiếm cứu nạn… Tăng cường xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, bảo đảm cho Quân đội thống nhất cả về ý chí và hành động. Xây dựng Quân đội nhân dân có đời sống vật chất tinh thần tốt, quản lý, khai thác, sử dụng có hiệu quả vũ khí trang bị kỹ thuật.
Kỷ niệm 65 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, 20 năm ngày Hội Quốc phòng toàn dân là dịp để chúng ta ôn lại lịch sử, truyền thống vẻ vang, những chiến công oanh liệt của Quân đội và nhân dân ta. Qua đó, khơi dậy niềm tự hào, tự tôn dân tộc, nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, ý chí quật cường, ý thức tự lực, tự cường vượt qua mọi khó khăn, thử thách, ra sức xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới của cách mạng; góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG