ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN BIỂN ĐẢO NĂM 2011
—
I. KHÁI QUÁT VỀ BIỂN, ĐẢO VIỆTNAM
1. Vị trí địa lý
Biển và đại dương được các nhà khoa học gọi là “Lục địa xanh”, phủ kín 70,8% bề mặt trái đất và đang “cất giấu” những kho nguyên liệu, khoáng vật khổng lồ dưới dạng hòa tan trong nước, lắng đọng dưới đáy và vùi kín dưới lòng đại dương. Do có đặc thù như vậy nên nhiều vùng biển, đại dương đang là nơi tranh chấp trên thế giới, nhất là đối với những nước lớn ở gần biển và đại dương có sức mạnh về kinh tế và quân sự.
Biển Đông là một biển nửa kín, nằm ở rìa Tây Thái Bình Dương, với diện tích khoảng 3,5 triệu km2 trải rộng từ vĩ độ 30 lên đến vĩ độ 260 Bắc và từ kinh độ 1000 đến 1210 Đông. Biển Đông tiếp giáp với 9 nước là Việt Nam, Trung Quốc, Philippin, Inđônêxia, Bruney, Malayxia, Singapore, Thái Lan, Camphuchia và một vùng lãnh thổ là Đài Loan. Biển Đông có vị trí chiến lược đối với các nước trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương nói riêng và các quốc gia khác trên thế giới.
Việt Namlà quốc gia ven biển nằm bên bờ Tây của Biển Đông, có địa chính trị và địa kinh tế rất quan trọng không phải bất kỳ quốc gia nào cũng có. Với bờ biển dài trên 3.260 km trải dài từ Bắc xuống Nam, đứng thứ 27 trong số 157 quốc gia ven biển, các quốc đảo và các lãnh thổ trên thế giới. Chỉ số chiều dài bờ biển trên diện tích đất liền của nước ta là xấp xỉ 0,01 (nghĩa là cứ 100 km2 đất liền có 1km bờ biển). Trong 63 tỉnh, thành phố của cả nước thì 28 tỉnh, thành phố có biển và gần một nửa dân số sinh sống tại các tỉnh, thành ven biển. Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, biển đảo luôn gắn với quá trình xây dựng và phát triển của đất nước và con người Việt Nam.
Vùng biển nước ta: bao gồm cả vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Theo Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982, nước ta có diện tích biển khoảng trên 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền, chiếm gần 30% diện tích Biển Đông (cả Biển Đông gần 3,5 triệu km2). Vùng biển nước ta có khoảng 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ và 2 quần đảo xa bờ là Hoàng Sa và Trường Sa, được phân bố khá đều theo chiều dài của bờ biển đất nước, với vị trí đặc biệt quan trọng như một tuyến phòng thủ tiền tiêu để bảo vệ sườn phía Đông của đất nước. Một số đảo ven bờ còn có vị trí quan trọng được sử dụng làm các điểm mốc quốc gia trên biển để thiết lập đường cơ sở ven bờ lục địa Việt Nam, từ đó xác định vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, làm cơ sở pháp lý để bảo vệ chủ quyền quốc gia trên các vùng biển.
Theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, các quốc gia ven biển có năm (05) vùng biển gồm: Nội thủy nằm bên trong đường cơ sở; lãnh hải có chiều rộng 12 hải lý; vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở; riêng thềm lục địa có thể kéo dài ra tới 350 hải lý. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa ViệtNamtuyên bố chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia đối với các vùng biển nói trên:
(1) Nội thủy: Là vùng nước nằm ở phía trong đường cơ sở của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nội thủy được coi như lãnh thổ trên đất liền, đặt dưới chủ quyền toàn vẹn đầy đủ và tuyệt đối của quốc gia Việt Nam.
Đường cơ sở: là đường ranh giới phía trong của lãnh hải và phía ngoài của nội thủy, do quốc gia ven biển hay quốc gia quần đảo định ra phù hợp với Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 để làm cơ sở xác định phạm vi của các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán quốc gia. Là đường dùng làm căn cứ để tính chiều rộng lãnh hải và các vùng biển khác. Có 2 loại đường cơ sở:
– Đường cơ sở thông thường: Là đường sử dụng ngấn nước thủy triều thấp nhất ven bờ biển hoặc hải đảo.
– Đường cơ sở thẳng: Là đường nối các điểm hoặc đảo nhô ra nhất của bờ biển lục địa hoặc đảo. Đường cơ sở thẳng áp dụng khi bờ biển quốc gia ven biển bị chia cắt hoặc có chuỗi đảo gắn liền và chạy dọc theo bờ biển.
Nước ta có chuỗi đảo chạy dọc theo bờ biển được vận dụng để xác định đường cơ sở thẳng. Năm 1982, Chính phủ nước ta ra tuyên bố xác định đường cơ sở thẳng ven bờ lục địa ViệtNamgồm 10 đoạn nối 11 điểm. Trừ điểm A8 nằm trên mũi Đại Lãnh, các điểm còn lại đều nằm trên các đảo. Điểm 0 nằm trên ranh giới phía TâyNamcủa vùng nước lịch sử ViệtNam- Campuchia. Điểm A1: Hòn Nhạn (Kiên Giang); A2: Hòn Đá Lẻ (Cà Mau); A3: Hòn Tài Lớn; A4: Hòn Bông Lan; A5: Hòn Bảy Cạnh (Bà Rịa – Vũng Tàu); A6: Hòn Hải; A7: Hòn Đôi (Bình Thuận); A8: Mũi Đại Lãnh; A9: Hòn Ông Căn (Khánh Hòa); A10: Đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi); A11: Đảo Cồn Cỏ (Quảng Trị).
(2) Lãnh hải: Lãnh hải của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam rộng 12 hải lý (01 hải lý tương đương 1.852m), ở phía ngoài đường cơ sở. Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới của quốc gia ven biển. Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa ViệtNam thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải của mình cũng như đối với vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải. Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982, chủ quyền đối với vùng lãnh hải không phải là tuyệt đối như vùng nội thủy, tàu thuyền các nước khác được “đi qua không gây hại” trong lãnh hải. Các quốc gia ven biển có quyền ấn định các tuyến đường, quy định việc phân chia các luồng giao thông dành cho tàu nước ngoài đi qua lãnh hải nhằm bảo đảm chủ quyền, an ninh quốc gia và lợi ích của mình.
(3) Vùng tiếp giáp lãnh hải: Vùng tiếp giáp lãnh hải của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là vùng biển tiếp liền phía ngoài lãnh hải Việt Nam có chiều rộng 12 hải lý, hợp với lãnh hải thành một vùng rộng 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của Việt Nam. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện sự kiểm soát cần thiết trong vùng tiếp giáp lãnh hải của mình nhằm bảo vệ quyền lợi về hải quan, thuế khóa, đảm bảo sự tôn trọng các quy định về y tế, di cư, nhập cư trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải Việt Nam.
(4) Vùng đặc quyền kinh tế: Vùng đặc quyền kinh tế của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp liền vùng lãnh hải và hợp với vùng lãnh hải thành vùng biển rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của Việt Nam. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn về việc thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lý tất cả các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật và không sinh vật ở vùng nước, ở đáy biển và trong lòng đất dưới đáy biển của vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam; có quyền và thẩm quyền riêng biệt về các hoạt động khác phục vụ cho việc thăm dò và khai thác vùng đặc quyền kinh tế nhằm mục đích kinh tế; có thẩm quyền riêng biệt về nghiên cứu khoa học trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam; có thẩm quyền trong bảo vệ môi trường, chống ô nhiễm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
(5) Thềm lục địa: Thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển thuộc phần kéo dài tự nhiên của lục địa mở rộng ra ngoài lãnh hải Việt Nam cho đến bờ ngoài của rìa lục địa; nơi nào bờ ngoài của rìa lục địa cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải ViệtNam không đến 200 hải lý thì thềm lục địa nơi ấy mở rộng ra 200 hải lý kể từ đường cơ sở đó. Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982, nước nào có thềm lục địa tự nhiên quá rộng thì thềm lục địa có thể mở rộng ra không quá 350 hải lý kể từ đường cơ sở. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn về mặt thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lý tất cả các tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa Việt Nam bao gồm tài nguyên khoáng sản, tài nguyên không sinh vật và tài nguyên sinh vật thuộc loại định cư ở thềm lục địa Việt Nam.
2. Việt Nam là Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền và là quốc gia duy nhất quản lý liên tục đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp với quy định của luật pháp quốc tế
Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ lâu đã là lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc ViệtNam. Chúng ta hoàn toàn có đầy đủ căn cứ khoa học một cách vững chắc cả về lịch sử và pháp lý phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế. Nhà nước Việt Nam từ lâu đã chiếm hữu thật sự quần đảo Hoàng sa và Trường sa khi hai quần đảo chưa thuộc chủ quyền của bất cứ quốc gia nào và liên tục thực hiện chủ quyền thực sự của mình đối với hai quần đảo này.
2.1.Văn bản lịch sử của Việt Nam
Thời Lê Thánh Tông (1460 – 1497), trong “Toàn tập ThiênNamtứ chi lộ đồ thư” ta đã vẽ bản đồ Hoàng Sa và Trường Sa, lúc đó ta gọi là “bãi cát vàng” và “Vạn lý Trường Sa”. (Nguyên bản này hiện đang lưu giữ tạiTokyo- Nhật Bản).
Vào nửa đầu thế kỷ XVII, Chúa Nguyễn tổ chức“Đội Hoàng Sa”, lấy người từ xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi ra quần đảo Hoàng Sa thu lượm hàng hóa của các tàu đắm, đánh bắt hải sản quý hiếm mang về dâng nộp triều đình; đồng thời đo vẽ, trồng cây và dựng mốc trên quần đảo. Chúa Nguyễn tổ chức thêm “Đội Bắc Hải”, lấy người từ thôn Tứ Chính, xã Cảnh Dương, phủ Bình Thuận, cấp giấy phép ra quần đảo Trường Sa làm nhiệm vụ như Đội Hoàng Sa. Khi nhà vua cử các đội đi Hoàng Sa, đã biết rằng cuộc ra đi vô cùng khó khăn, nên đã cho mỗi người lính mang theo một đôi chiếu, 7 đòn tre, 7 sợi dây lạt và một tấm thẻ Bài có khắc tên họ, bản quán để phòng xa, nếu hy sinh thì đồng đội sẽ bỏ xác vào chiếu thả trôi trên biển. Trước khi lên đường, thường là vào tháng Hai Âm lịch, thì làm lễ gọi là “Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa”. Đồng thời làm những “ngôi mộ gió”, nơi chôn những hình nhân tượng trưng cho những người lính hy sinh ở Hoàng Sa. Một trong những người lính đó là Phạm Hữu Nhật cách đây hơn 170 năm đã có bia mộ trên triền núi ở Lý Sơn “Phục vị vong Cao Bình Quận Phạm Hữu Nhật thần hồn chi linh vị. Sanh Giáp Tý (1804), Giáp Dần (1854) tôn diệt phong tự”.
Thế kỷ XVIII, trong “Đại Nam nhất thống toàn đồ” đã ghi rõ Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa là một trong những đảo của Việt Nam.
Năm Bính Thân, niên hiệu Minh Mạng thứ 17 (1836) Bộ Công dâng sớ tâu lên Vua: Xứ Hoàng Sa thuộc cương vực biển nước ta, hết sức hiểm yếu. Sách ĐạiNamnhất thống trí viết “Phía Đông có bãi cát nằm ngang (đảo Hoàng Sa) liền với biển xanh làm hào bao che”.
Cùng với nhiệm vụ khai thác hải sản và hàng hóa trên quần đảo, nhà Nguyễn còn tổ chức đo đạc, khảo sát, dựng bia, cắm mốc, trồng cây trên quần đảo… liên tục trong các năm 1834, 1835, 1836. Thông qua việc tổ chức khai thác tài nguyên trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa liên tục hàng thế kỷ, trên thực tế cũng như về pháp lý, nhà Nguyễn đã làm chủ hai quần đảo này còn chưa thuộc về lãnh thổ của bất kỳ quốc gia nào và biến hai quần đảo từ vô chủ thành bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam.
Các hoạt động của Nhà Nguyễn tại Hoàng Sa và Trường Sa được lưu lại không chỉ trong tài liệu lịch sử của nhiều tác giả trong nước. Trong “Toàn tập Thiên nam tứ chí lộ đồ thư” của Đỗ Bá tự Công Đạo (1686); “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn (1776) đã tả kỹ về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Phan Huy Chú (1782 – 1840) trong sách “Lịch triều hiến chương loại chí” và “Hoàng Việt địa dư chí” còn mô tả việc quản lý Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn Đại Nam thực lục tiền biên (1844 – 1848), Đại Nam thực lục chính biên, Đại Nam nhất thống chí… Gần đây, chúng ta đã phát hiện thêm nhiều thư tịch, gia phả, tài liệu thời nhà Nguyễn ghi lại các hoạt động về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Việc thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa, thời thuộc Pháp: từ ngày 6/6/1884, sau khi triều Nguyễn ký với Pháp Hiệp ước Giáp Thân, công nhận sự thống trị của thực dân Pháp đối với ViệtNam. Từ đó, Pháp thực hiện chủ quyền với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của ViệtNam. Năm 1887, Pháp và triều đình Mãn Thanh ký công ước hoạch định biên giới trên bộ và trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Ngày 15/6/1938, Toàn quyền Đông Dương I.Brévie ký Nghị định số 156-SC, quyết định tổ chức đơn vị hành chính quần đảo Hoàng Sa, thuộc tỉnh Thừa Thiên. Ngày 21/12/1933, Thống đốcNamkỳ Krautheimer đã ký Nghị định số 4762-CP, sáp nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa. Ngày 14/10/1950, Chính phủ Pháp chính thức bàn giao hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho chính quyền của Bảo Đại quản lý. Tướng Phan Văn Giáo lúc đó là Thủ hiến Trung Phần đã đích thân đến đảo Hoàng Sa để chủ tọa buổi lễ.
Sau khi thực dân Pháp thiết lập được ách đô hộ ở Việt Nam, nhân danh Vương quốc An Nam theo Hiệp ước Giáp Tuất (năm 1874) cũng như Hiệp ước Patenôtre năm 1884, chính quyền thực dân Pháp ở Việt Nam đã chính thức chiếm hữu Hoàng Sa và Trường Sa trong tình trạng không có nước nào chiếm hữu.
Sau đó, Bộ Ngoại giao Pháp đã có một thông tri đăng trên công báo Pháp ngày 26-7-1933 về sự chiếm hữu hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Suốt thời gian từ 1927 đến 1945, chính quyền thực dân Pháp ở Việt Nam luôn khẳng định chủ quyền của Việt Nam, chưa bao giờ từ bỏ chủ quyền Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tháng 9/1951, tại Hội nghị San Franxitco, ông Trần Văn Hữu – Thủ tướng Chính phủ của Bảo Đại, trưởng phái đoàn của Việt Nam đã tuyên bố chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, sau khi Nhật đã trả lại tất cả lãnh thổ họ đã chiếm cứ trong chiến tranh thế giới thứ II, 51 quốc gia tham dự, đều thống nhất không có ý kiến phản đối. Về hành chính năm 1956, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa quyết định quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Tuy Phước và chuyển quần đảo Hoàng Sa từ tỉnh Thừa Thiên về tỉnh Quảng Nam quản lý (1961). Khi Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm các đảo phía Đông (tháng 4/1956) và các đảo phía Tây (tháng 1/1974) quần đảo Hoàng Sa, chính quyền Việt Nam trong mỗi thời kỳ đã cực lực lên án và kiên quyết phản đối.
Tháng 4/1975, Hải quân nhân dân Việt Nam giải phóng các đảo ở Trường Sa do quân đội Sài Gòn đóng giữ, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và tuyên bố quyền bảo vệ chủ quyền đó.
Sau khi thống nhất đất nước, với tư cách kế thừa quyền sở hữu các quần đảo từ các chính quyền trước, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có trách nhiệm duy trì việc bảo vệ chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và đã ban hành nhiều văn bản pháp lý quan trọng liên quan trực tiếp đến hai quần đảo này. Trong đó, có Hiến pháp các năm 1980, 1992, Luật Biên giới quốc gia năm 2003… đều khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một bộ phận lãnh thổ của Việt Nam. Trong các năm 1979, 1981 và 1988, Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã 3 lần công bố Sách trắng về 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Rõ ràng, chúng ta có đầy đủ bằng chứng lịch sử và pháp lý khẳng định chủ quyền của ViệtNamđối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. ViệtNamlà nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền và là quốc gia duy nhất quản lý liên tục, có tính kế thừa và phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
2.2. Các tư liệu nước ngoài và Trung Quốc đều thừa nhận rõ việc xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Bên cạnh các tài liệu của Việt Nam, chủ quyền của Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa còn được đề cập trong các tài liệu nước ngoài. Nhiều nhà hàng hải, nhà nghiên cứu phương Tây đã từng đến Việt Nam xác nhận Bãi Cát Vàng, Hoàng Sa, Vạn Lý Trường Sa thuộc chủ quyền lãnh thổ Việt Nam.
Trong bản đồ Biển Đông (Sinensis Oceanus) của anh em Van Langren người Hà Lan in năm 1595 cũng như trong bản đồ “Indiae Orientalis” của nhà hàng hải Meccato in năm 1633, đã vẽ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thành một dải liền nhau, hình lá cờ đuôi nheo nằm trải dài ngoài khơi dọc theo bờ biển miền Trung Việt Nam, trong đó có rất nhiều chấm nhỏ biểu thị các hòn đảo, bãi cát với hàng chữ Isle de Pracel (quần đảo Pracel). Trong bản đồ này trên bờ biển ở khu vực Đà Nẵng hiện nay có ghi dòng chữ Costa de Pracel (bờ biển Pracel).
Trong một công trình của mình, nhà nghiên cứu M.G. Dumoutier đã đề cập đến một tập bản đồ Việt Nam vẽ vào cuối thế kỷ XV gồm 24 mảnh, trong đó có mảnh thứ 19 đã thể hiện rõ ràng ở ngoài khơi tỉnh Quảng Nghĩa có một bãi cát trải dài 500 – 600 hải lý mang tên Bãi Cát Vàng.
Trong số tài liệu lịch sử của nhiều tác giả nước ngoài, một tài liệu giữ ở kho lưu trữ của Pháp ngày 10/4/1768 mang tên là “Note sur l’Asedemandés pas M. de la bonde à M. d’ Etaing” cho biết hồi đó hải quân Việt Nam đã tuần tiễu đều đặn giữa bờ biển Việt Nam và quần đảo Hoàng Sa. Đô đốc d’Estaing đã tả hệ thống phòng thủ của Việt Nam có nhiều đại bác, phần lớn là mang huy hiệu của Bồ Đào Nha, có ghi năm 1661 và những khẩu nhỏ hơn mang hiệu xứ Campuchia và dấu khắc tên “Anh Quốc Ấn Độ công ty” (Brifish company of India). Những khẩu pháo nhỏ này đã được thu lượm ở Hoàng Sa. Ngoài ra còn có các tác giả Le Poivre (1740), J Chaigneau (1816, 1819), Taberd (1833), Gutzlagip (1840)… cũng từng khẳng định Hoàng Sa thuộc chủ quyền của ViệtNam.
Ngay cả các tác giả người Trung Quốc trước đây cũng từng viết sách nói rằng Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Nhà sư Thích Đại Sán trong cuốn Hải ngoại ký sự viết năm 1696 đã xác nhận các chúa Nguyễn hàng năm cho thuyền khai thác các sản vật từ các tàu bị đắm ở vùng Vạn lý Trường Sa (tức Hoàng Sa của Việt Nam). Tập tài liệu của Trung Quốc “Ngã quốc Nam Hải chư đảo sử liệu hội biên” do Hàn Chấn Hoa chủ biên, trang 115 thiên thứ nhất, cũng ghi chép dấu vết trên đảo Vinh Hưng (Phú Lâm) ở Hoàng Sa có miếu gọi là Hoàng Sa tự. (Hoàng Sa tự được vua Minh Mạng triều Nguyễn cho xây dựng). Trong cuốn Hoàng Thanh nhất thống dư địa toàn đồ, bản đồ Trung Quốc đời Thanh, xuất bản năm 1894 ghi chú rõ: “Điểm cực Nam lãnh thổ Trung Quốc là Nhai Châu, Quảng Đông, độ Bắc cực 18o13”. Còn quyển Quảng Đông dư địa toàn đồ, bản đồ tỉnh Quảng Đông, xuất bản năm 1897 cũng ghi: “Điểm cực Nam tỉnh này là mỏm núi bên ngoài cảng Du Lâm 18o09’10″”. Trong Đại Thanh đế quốc, bản đồ toàn Trung Quốc trong tập bản đồ mang tên “Đại Thanh đế quốc toàn đồ”, xuất bản năm 1905, tái bản lần thứ tư năm 1910, cũng chỉ rõ phần cực Nam lãnh thổ Trung Quốc là đảo Hải Nam. Những bản đồ trên đây đều khẳng định cho đến thế kỷ XX, lãnh thổ Trung Quốc không bao giờ gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trong sách “Hải lục” của Trung Quốc viết năm 1842 cũng nhận xét: “Vạn lý Trường Sa gồm những bãi cát nổi trên biển dài mấy ngàn dặm, làm phên dậu bên ngoài của nước An Nam”.
Đáng chú ý có thể kể đến An Nam đại quốc họa đồ của giám mục Taberd xuất bản năm 1838 đã khẳng định Bãi Cát Vàng là Paracels và nằm trong lãnh hải Việt Nam. Bản đồ này là một tài liệu phản ánh sự tổng kết những hiểu biết sâu sắc và chính đáng của người phương Tây từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX về mối quan hệ giữa quần đảo Hoàng Sa và nước Đại Việt mà tác giả gọi là An Nam đại quốc.
Như vậy, khi phân tích các dữ liệu ViệtNamvà các tư liệu nước ngoài cũng như của Trung Quốc, chúng ta thấy rõ hầu hết các tư liệu ViệtNamđưa ra đều là tư liệu chính thức của Nhà nước, xác minh rõ việc xác lập và thực thi chủ quyền ViệtNam.
3. Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về chủ quyền biển đảo và giải quyết các vấn đề tranh chấp ở biển Đông
Ngày 12/5/1977, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cùng các nước liên quan, thông qua thương lượng trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế, giải quyết các vấn đề về các vùng biển và thềm lục địa của mỗi bên.
Ngày 23/6/1994, tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khóa IX) đã thông qua Nghị quyết về việc phê chuẩn Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982, trong đó có những điểm chính:
Bằng việc phê chuẩn Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam biểu thị quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển.
Quốc hội một lần nữa khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và chủ trương giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ cũng như các bất đồng khác liên quan đến biển Đông thông qua thương lượng hòa bình trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng pháp luật quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982, tôn trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế về thềm lục địa; trong khi nỗ lực thúc đẩy đàm phán để tìm giải pháp cơ bản và lâu dài, các bên liên quan cần duy trì ổn định trên cơ sở giữ nguyên trạng không có hành động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực. Quốc hội nhấn mạnh cần phân biệt vấn đề giải quyết tranh chấp về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với vấn đề bảo vệ các vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam căn cứ vào những nguyên tắc và những tiêu chuẩn của Công ước Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982.
Trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực hiện nay, việc quán triệt và tổ chức thực hiện tốt chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về giữ gìn hòa bình để phát triển kinh tế, đưa đất nước ra khỏi trình trạng kém phát triển, cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, đồng thời bảo đảm an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Theo tinh thần chỉ đạo nói trên, liên tục trong nhiều năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã cố gắng, triển khai một khối lượng lớn công việc nhằm tạo dựng và duy trì môi trường hòa bình, ổn định, phát triển kinh tế đất nước, bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển. Đối với các vùng biển thực sự có chồng lấn giữa nước ta và các nước, các bên liên quan có thể bàn bạc, trao đổi để hợp tác cùng phát triển.
Cùng với việc giải quyết một cách căn bản các tranh chấp về biên giới lãnh thổ trên bộ, tiến tới xây dựng đường biên giới trên bộ hòa bình, hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng Trung Quốc, Lào, Camphuchia, Việt Nam đã đàm phán đi đến ký Hiệp định về Vùng nước lịch sử với Camphuchia (1982); thỏa thuận khai thác chung với Malayxia (1992); Hiệp định phân ranh giới biển với Thái Lan (1997); Hiệp định phân vịnh Bắc bộ và Hiệp định Hợp tác nghề cá với Trung Quốc (2000); Hiệp định phân định thềm lục địa với Indonexia (2003). Việt Nam đang đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc bộ với Trung Quốc; phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa với Malayxia; phân định vùng đặc quyền kinh tế với Indonexia; phân định vùng biển với Campuchia; phân định vùng chồng lấn thềm lục địa ba nước Việt Nam, Thái Lan, Malayxia; phân định vùng chồng lấn thềm lục địa với Brunây. Việt Nam cũng đang kiên trì đàm phán để bảo vệ Vùng thông báo bay (FIR – vùng trời); xác định vùng trách nhiệm tiếp nhận thông tin cứu nạn hàng hải (VNMCC); vùng tìm kiếm cứu nạn (theo quy định của Công ước SAR 79 – vùng biển); xác định ranh giới thềm lục địa vượt quá 200 hải lý theo yêu cầu của Liên Hợp quốc. Năm 2005, cơ quan dầu khí quốc gia ba nước Việt Nam, Trung Quốc, Philippin đã ký kết và triển khai thỏa thuận thăm dò địa chấn biển chung tại khu vực thỏa thuận trên Biển Đông; năm 2010, chúng ta hoàn thành công tác phân giới, cắm mốc trên đất liền giữa Việt Nam – Trung Quốc. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, hai nước đã xác định đường biên giới rõ ràng trên đất liền với hệ thống cột mốc hiện đại, mở ra một trang mới trong lịch sử quan hệ giữa ViệtNam- Trung Quốc. Ngoài ra, chúng ta thực hiện các cơ chế đối thoại và hợp tác về chính trị – an ninh khu vực, nhất là Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) tiếp tục hoạt động mạnh mẽ và được bổ sung với việc lập một số cơ chế mới như Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng với các đối tác quan trọng (ADMM +), Hội nghị những người đứng đầu các cơ quan an ninh ASEAN (MACOSA) và Diễn đàn Biển ASEAN (AMF)…,
Để hạn chế các vụ việc vi phạm pháp luật trên biển, cùng với công tác tuyên truyền sâu rộng cho ngư dân ta về các thỏa thuận quốc tế hữu quan, Hải quân ta còn tiến hành các chuyến tuần tra chung trên biển với Hải quân Thái Lan (đã tiến hành trên 21 chuyến), với Hải quân Campuchia (đã tiến hành trên 19 chuyến) và trong Vịnh Bắc Bộ với Hải quân Trung Quốc (đã tiến hành được 10 chuyến). Lập kênh thông tin đường dây nóng giữa Tư lệnh Hải quân Việt Nam với Tư lệnh Hải quân một số nước trong khu vực, qua đó đã góp phần giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề nảy sinh trên biển. Ngoài ra, chúng ta cũng tham gia tích cực việc triển khai Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) được các nước thành viên ASEAN và Trung Quốc ký ngày 4/11/2002; tham gia Hội thảo khống chế xung đột tiềm tàng ở Biển Đông do Inđônêxia chủ trì; hợp tác với Philippin triển khai dự án hợp tác nghiên cứu khoa học biển Việt Nam – Philippin, JOMSRE…
Những thỏa thuận và việc làm tích cực liên quan đến Biển Đông nói trên có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc tăng cường, hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, thu hẹp bất đồng, tạo không khí thuận lợi cho việc thúc đẩy đàm phán tìm kiếm giải pháp hòa bình, cơ bản, lâu dài cho vấn đề Biển Đông.
Tuy nhiên, từ đầu năm 2007 đến nay, tình hình Biển Đông diễn biến theo chiều hướng phức tạp, Trung Quốc liên tiếp có các hoạt động vi phạm chủ quyền ViệtNamtrên Biển Đông.
Trung Quốc đã phản đối, tìm cách ngăn cản các công ty dầu khí nước ngoài đang hợp tác thăm dò, khai thác dầu khí trên thềm lục địa Việt Nam với nhiều phương thức khác nhau, vừa lôi kéo vừa gia tăng sức ép, phản đối ngoại giao, buộc các nước, các đối tác phải dừng, phải hủy bỏ các hợp đồng nghiên cứu, khai thác dầu khí với Việt Nam, kể cả việc sử dụng tàu và máy bay có vũ trang cản trở hoạt động của ta trên biển. Chúng ta đã kiên trì giao thiệp và đấu tranh qua đường ngoại giao cũng như trên thực địa, kiên quyết phản đối những đòi hỏi vô lý của phía Trung Quốc. Đến nay, hầu hết các đối tác dầu khí nước ngoài tiếp tục hoạt động bình thường trên thềm lục địa ViệtNam.
Cũng trong lĩnh vực dầu khí, Việt Nam đã kiên quyết, đấu tranh phản đối phía Trung Quốc tiến hành các hoạt động tìm kiếm, thăm dò tài nguyên trên thềm lục địa Việt Nam ở khu vực quần đảo Hoàng Sa. Ta đã kết hợp chặt chẽ trên mặt trận ngoại giao với việc ngăn cản quyết liệt trên biển, buộc phía Trung Quốc phải dừng các hoạt động bất hợp pháp này. Phía ta cũng có nhiều biện pháp bảo vệ hoạt động bình thường của ngư dân ta trên biển, kiên quyết phản đối và bồi thường đối với các hoạt động xâm hại đến tính mạng và phương tiện của ngư dân ta. Đặc biệt, Trung Quốc tổ chức bắt, phạt tàu đánh cá của ngư dân ta đang hành nghề hợp pháp trên các vùng biển của ta; một số vụ bắt khi ngư dân ta đánh bắt ở vùng biển Hoàng Sa, bắt người nhà lên biên giới nộp tiền mới thả tàu; phạt lần sau cao hơn lần trước; thậm chí còn đuổi bắt và bắn vào tàu cá của ta. Mục đích cuối cùng là để cho ngư dân ta không dám ra làm ăn trên vùng biển này, đây là hành động có sự tính toán của họ nhằm khẳng định chủ quyền. Gần đây Trung Quốc phá hoại, cản trở các hoạt động thăm dò khảo sát bình thường của Việt Nam trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, gây thiệt hại lớn cho Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam.
Trong thời gian tới, chúng ta cần tiếp tục theo dõi chặt chẽ diễn biến tình hình, kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển; đồng thời đẩy mạnh công tác đàm phán, phân định biển với các nước láng giềng; tăng cường hợp tác trên biển theo tinh thần Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), giữ gìn hòa bình và ổn định trên biển, cố gắng thu hẹp bất đồng, tìm kiếm giải pháp ổn định lâu dài mà các bên chấp nhận được. Đối với trong nước, chúng ta đẩy mạnh phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh – quốc phòng trên biển; tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao kiến thức về chủ quyền biển đảo quốc gia. Mặt khác, chúng ta cũng cần đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu của các thế lực cơ hội, cực đoan, thù địch lợi dụng vấn đề bất đồng về chủ quyền lãnh thổ để kích động, chia rẽ quan hệ giữa nước ta với các nước láng giềng; công kích, xuyên tạc chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta.
4. Tầm quan trọng của biển đảo đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
4.1. Về phát triển kinh tế
Biển Đông là vùng biển có 1 trong số 10 tuyến đường hàng hải lớn nhất trên thế giới đi qua. Giao thông nhộn nhịp đứng thứ 2 thế giới (sau Địa Trung Hải). Hàng ngày có khoảng 200 – 300 tàu từ 5.000 tấn trở lên qua lại (không kể tàu dưới 5.000 tấn) chiếm 1/4 lưu lượng tàu hoạt động trên biển của thế giới. Khu vực Biển Đông có những eo biển quan trọng đối với nhiều nước, trong đó eo biển Malacca là eo biển nhộn nhịp thứ hai trên thế giới (sau eo biển Hormuz). Biển Đông rất quan trọng đối với nhiều nước trong khu vực xét về vị trí địa – chiến lược, an ninh, giao thông hàng hải và kinh tế. Với Mỹ là tuyến hoạt động chính của Hạm đội 7, có 90% hàng hóa của Mỹ và hàng hóa đồng minh chuyên chở qua Biển Đông. Với Trung Quốc hàng năm nhập 160 triệu tấn dầu thì 50% dầu nhập và 70% hàng hóa qua Biển Đông. Với Nhật Bản 70% lượng dầu nhập khẩu và 42% lượng hàng hóa xuất khẩu chuyên chở qua Biển Đông.
Biển Đông còn là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên biển quan trọng cho đời sống và sự phát triển kinh tế của các nước xung quanh, đặc biệt là nguồn tài nguyên sinh vật (thủy sản), phi sinh vật (dầu khí, khoáng sản). Biển Đông được coi là một trong năm bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất thế giới. Các khu vực thềm lục địa có tiềm năng dầu khí cao là các bồn trũng Bruney – Saba, Sarawak, Malay, Pattani, Nam Côn Sơn, Mê Công, Sông Hồng, cửa Sông Châu Giang… Các khu vực có tiềm năng dầu khí còn lại chưa khai thác là khu vực thềm lục địa ngoài của vịnh Bắc Bộ và bờ biển Miền Trung, khu vực thềm lục địa Tư Chính. Theo đánh giá của Bộ Năng lượng Mỹ, lượng dầu dự trữ được kiểm chứng ở Biển Đông là 7 tỷ thùng với khả năng sản xuất 2,5 triệu thùng/ngày. Theo đánh giá của Trung Quốc, trữ lượng dầu khí ở Biển Đông khoảng 213 tỷ thùng.
Đối với Việt Nam, vùng biển và ven biển Việt Nam nằm án ngữ trên con đường hàng hải và hàng không huyết mạch thông thương giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, giữa Châu Âu, Trung Cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản và các nước trong khu vực. Điều kiện tự nhiên của bờ biển ViệtNamlà tiềm năng to lớn cho ngành giao thông hàng hải ViệtNam. Dọc bờ biển Việt Nam xác định nhiều khu vực xây dựng cảng, trong đó có một số nơi có thể xây dựng cảng biển nước sâu như: Cái Lân và một số điểm ở khu vực Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long, Lạch Huyện, Đình Vũ, Cát Hải, Đồ Sơn, Nghi Sơn, Cửa Lò, Hòn La, Vũng Áng, Chân Mây, Đà Nẵng, Dung Quốc, Vân Phong, Cam Ranh, Vũng Tàu, Thị Vải… PhíaNam, cảng quy mô vừa như Hòn Chông, Phú Quốc… Ngoài sự hình thành mạng lưới cảng biển, các tuyến đường bộ, đường sắt dọc ven biển và nối với các vùng sâu trong nội địa (đặc biệt là các tuyến đường xuyên Á) sẽ cho phép vùng biển và ven biển nước ta có khả năng chuyển tải hàng hóa nhập khẩu tới mọi miền của Tổ quốc một cách nhanh chóng và thuận lợi.
Biển Việt Namcó tiềm năng tài nguyên phong phú, đặc biệt là dầu mỏ khí đốt. Trữ lượng dự báo tại vùng biển và thềm lục địa Việt Nam khoảng 10 tỷ tấn dầu quy đổi, trữ lượng khai thác từ 4 đến 5 tỷ tấn. Trữ lượng khí dự báo khoảng 1.000 tỷ m3. Hiện nay chúng ta đã phát hiện hàng chục mỏ dầu khí có trữ lượng khai thác công nghiệp, trong đó đã đưa vào khai thác gần một chục mỏ, hàng năm cung cấp hàng triệu tấn dầu và hàng tỷm3 khí phục vụ cho phát triển kinh tế và dân sinh. Ngoài ra còn có các khoáng sản quan trọng và có tiềm năng lớn như than, sắt, titan, băng cháy, cát thủy tinh, muối và các loại vật liệu xây dựng khác.
Nguồn lợi hải sản nước ta được đánh giá vào loại phong phú trong khu vực. Theo các điều tra về nguồn lợi hải sản, tính đa dạng sinh học trong vùng biển nước ta đã phát hiện được khoảng 11.000 loài sinh vật cư trú, trong đó có 6.000 loài động vật đáy, 2.400 loài cá (trong đó có 130 loài cá có giá trị kinh tế), 653 loài rong biển, 657 loài động vật phù sa, 537 loài thực vật phù du, 225 loài tôm biển… Trữ lượng cá biển ước tính trong khoảng từ 3,1 đến 4,1 triệu tấn, khả năng khai thác từ 1,4 đến 1,6 triệu tấn. Nguồn lợi hải sản phong phú đã góp phần đưa ngành thủy sản trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, mang lại giá trị xuất khẩu đứng thứ 3 trong các ngành kinh tế của đất nước.
Biển ViệtNamcó nhiều điều kiện để phát triển du lịch – ngành công nghiệp không khói, hiện đang đóng góp không nhỏ vào nền kinh tế của đất nước. Do đặc điểm kiến tạo khu vực, các dãy núi đá vôi vươn ra sát bờ biển đã tạo thành nhiều cảnh quan thiên nhiên sơn thủy rất đa dạng, nhiều vịnh, bãi cát trắng, hang động, các bán đảo và các đảo lớn nhỏ liên kết với nhau thành một quần thể du lịch hiếm có trên thế giới như di sản thiên nhiên Hạ Long được UNESCO xếp hạng. Các thắng cảnh trên đất liền nổi tiếng như Phong Nha, Bích Động, Non nước…, các di tích lịch sử và văn hóa như: Cố đô Huế, phố cổ Hội An, Tháp Chàm, Nhà thờ đá Phát Diệm… phân bố tại vùng ven biển. Tiềm năng du lịch kể trên rất phù hợp để Việt Nam phát triển và đa dạng các loại hình du lịch hiện đại như nghỉ ngơi; dưỡng bệnh; tắm biển; du lịch sinh thái nghiên cứu khoa học vùng ven bờ, hải đảo, ngầm dưới nước; du lịch thể thao: bơi, lặn sâu, lướt ván, nhảy sóng, đua thuyền…
4.2. Về quốc phòng – an ninh
Biển nước ta được ví như mặt tiền, sân trước, cửa ngõ quốc gia; biển, đảo, thềm lục địa và đất liền hình thành phên dậu, chiến lũy nhiều lớp, nhiều tầng, bố trí thành tuyến phòng thủ liên hoàn bảo vệ Tổ quốc. Lịch sử dân tộc đã ghi nhận có tới 2/3 cuộc chiến tranh, kẻ thù đã sử dụng đường biển để tấn công xâm lược nước ta. Những chiến công hiển hách trên chiến trường sông biển đã minh chứng: Ba lần đại thắng quân thù trên sông Bạch Đằng (năm 938, 981 và 1288); chiến thắng trên phòng tuyến sông Như Nguyệt 1077; chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút năm 1785 và những chiến công vang dội của quân và dân ta trên chiến trường sông biển trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là những minh chứng ghi đậm dấu ấn không bao giờ mờ phai trong lịch sử dân tộc.
Ngày nay trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, biển đảo Việt Nam có vai trò quan trọng, làm tăng chiều sâu phòng thủ đất nước ra hướng biển. Do đặc điểm lãnh thổ đất liền nước ta có hình chữ S, trải dài ven biển từ Bắc vào Nam, chiều ngang hẹp (nơi rộng nhất khoảng 600 km, nơi hẹp nhất khoảng 50 km), nên chiều sâu đất nước bị hạn chế. Hầu hết các trung tâm chính trị, kinh tế xã hội của ta đều nằm trong phạm vi cách bờ biển không lớn, nên rất dễ bị địch tấn công từ hướng biển. Nếu chiến tranh xảy ra thì mọi mục tiêu trên đất liền đều nằm trong tầm hoạt động, bắn phá của vũ khí trang bị công nghệ cao xuất phát từ hướng biển. Nếu các quần đảo xa bờ, gần bờ được củng cố xây dựng căn cứ, vị trí trú đậu, triển khai của lực lượng Hải quân ViệtNamvà sự tham gia của các lực lượng khác thì biển đảo có vai trò quan trọng làm tăng chiều sâu phòng thủ hiệu quả cho đất nước.
Từ nhiều năm nay, nhất là những năm đầu của thập kỷ 70 của thế kỷ XX đến nay trên Biển Đông đang tồn tại những tranh chấp biển đảo rất quyết liệt và phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố mất ổn định, tác động đến quốc phòng và an ninh nước ta. Trên Biển Đông vùng biển nước ta tiếp giáp với vùng biển 7 nước trong khu vực là: Trung Quốc (phía Bắc), Campuchia và Thái Lan (TâyNam), Philippin, Malaixia, Inđônêxia, Brunây (phía Đông, ĐôngNamvàNam). Nơi đây đang diễn ra những tranh chấp phức tạp và quyết liệt về chủ quyền giữa các quốc gia, đẩy tới xu hướng tăng cường lực lượng quân sự, đặc biệt là hải quân của các nước trong khu vực, nhất là những nước có tiềm lực lớn về kinh tế, quân sự. Họ tận dụng ưu thế của mình trên biển để đe dọa chủ quyền vùng biển đảo, thềm lục địa của nước ta, gây ra những nhân tố khó lường về chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và an ninh đất nước.
Vươn ra biển, làm giàu từ biển là định hướng đúng đắn phù hợp trong điều kiện hiện nay. ViệtNamlà một quốc gia có biển, một nhân tố mà thế giới luôn xem như một yếu tố đặc lợi. Chúng ta cần tăng cường hơn nữa những khả năng quản lý, làm chủ vươn ra biển làm động lực thúc đẩy các vùng khác trong đất liền phát triển. Chúng ta phải có quyết tâm cao, tập trung huy động mọi tiềm năng và lợi thế của biển, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng – an ninh trên biển để tạo ra môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và ngư dân các địa phương yên tâm làm ăn trên các vùng biển đảo, nhất là ở vùng biển xa. Phải xây dựng Hải quân nhân dân Việt Nam và các lực lượng vững mạnh, theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và hiện đại, ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ để quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo, thềm lục địa của Tổ quốc.
4.3. Về tư tưởng, văn hóa, giáo dục
Nhận thức được tầm quan trọng của biển và đại dương đối với cuộc sống nhân loại, chủ quyền và vị trí chiến lược về quốc phòng – kinh tế – xã hội của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đối với đất nước, việc tổ chức giáo dục truyền thống trong các tầng lớp nhân dân về chủ quyền đã được chú trọng cả về nội dung và hình thức.
Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Ngãi chuẩn bị trình Chính phủ dự án xây dựng nhà bảo tàng trưng bày các hiện vật về hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa qua các thời kỳ lịch sử, phục chế di tích lịch sử, bảo tồn và sưu tầm văn hóa phi vật thể trên huyện đảo Lý Sơn.
Từ năm 2002, tài liệu tuyên truyền biển đảo ViệtNamđược đưa vào nội dung giảng dạy cho học sinh, sinh viên các trường đại học và cao đẳng. Đây là những nội dung cơ bản nhất về địa lý, tiềm năng kinh tế, định hướng chiến lược phát triển kinh tế và pháp luật liên quan đến biển đảo Việt Nam cũng như quá trình đàm phán giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa Việt Nam với các nước láng giềng.
Song song với phổ biến, tuyên truyền kiến thức biển đảo, các loại hình văn hóa có nội dung liên quan trực tiếp đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như phim tài liệu, bài viết, các bộ tem về biển đảo Việt Nam cũng được triển khai. Năm 1998, trong khuôn khổ chương trình năm Quốc tế đại dương do Liên Hợp quốc đề xướng, hãng phim Tư liệu và khoa học Trung ương đã sản xuất bộ phim “Lãnh thổ trên biển Đông” giới thiệu về các hoạt động bảo vệ chủ quyền và quản lý Nhà nước trên quần đảo Trường Sa và cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa với những bằng chứng lịch sử và tư liệu thực tế phong phú và sinh động.
Tiếp theo cuộc thi “Em yêu biển đảo Việt Nam” được tổ chức năm 1998, năm 2003, Bộ Tài nguyên – Môi trường, Tổng cục Du lịch và Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tiếp tục tổ chức chương trình “Vì biển xanh quê hương” phát động phong trào thi viết, thi ảnh về chủ đề bảo vệ môi trường biển; thanh niên các tỉnh, thành ven biển tiến hành nhiều đợt ra quân làm sạch bãi biển, trồng cây chắn sóng và đặc biệt tham gia cuộc thi tìm hiểu về biển đảo Việt Nam với những nội dung thiết thực, hun đúc thêm ý chí bảo vệ chủ quyền Tổ quốc trên biển của thanh thiếu niên trong cả nước.
Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học kỹ thuật, hàng loạt công trình nghiên cứu có giá trị ứng dụng thiết thực đã được tiến hành và bước đầu cho kết quả như chương trình khai thác điện năng từ ánh sáng mặt trời, chương trình nghiên cứu và cải tạo các giống cây thích hợp trên đảo… cũng như hàng loạt đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước đã và đang được triển khai về đánh giá tài nguyên, môi trường Biển Đông và khu vực hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
5. Những điều cần biết về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
5.1. Quần đảo Hoàng Sa
Quần đảo Hoàng Sa gồm trên 30 đảo, đá, cồn san hô và bãi cạn, nằm ở khu vực biển giữa vĩ độ 15045’00”N – 170 15’00” và kinh độ 111000’00”E – 113000’00”E trên vùng biển có diện tích 30.000 km2, cách đảo Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi) khoảng 120 hải lý, cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) khoảng 140 hải lý. Diện tích toàn bộ phần đất nổi của quần đảo khoảng 8km2. Quần đảo Hoàng Sa chia thành hai nhóm An Vĩnh (còn gọi là nhóm Đông – Bắc) và Trăng Khuyết (còn gọi là nhóm Tây).
– Nhóm An Vĩnh: nguyên là tên của một xã thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Theo sách Đại Nam Thực lục Tiền biên quyển 10 ghi chép về xã này như sau: “Ngoài biển xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi có hơn 100 cồn cát… chiều dài kéo dài không biết tới mấy ngàn dặm, tục gọi là Vạn Lý Hoàng Sa châu. Hồi quốc sơ đầu triều Nguyễn đặt đội Hoàng Sa gồm 70 người lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hàng năm cứ đến tháng 3 cưỡi thuyền ra đảo, 3 đêm thì tới nơi…”. Nhóm đảo An Vĩnh bao gồm các đảo tương đối lớn, Đảo Phú Lâm, Đảo Cây, Đảo Linh Côn và các bãi ngầm chính, trong đó đảo lớn nhất là đảo Phú Lâm (khoảng 2,3km2).
– Nhóm Trăng Khuyết (hay còn gọi là nhóm lưỡi liềm): có hình cánh cung hay lưỡi liềm gồm có các đảo Hoàng Sa, Hữu Nhật, Duy Mộng, Quang Ảnh, Quang Hòa, Bạch Quỷ, Tri Tôn và các bãi ngầm, trong đó có đảo Hoàng Sa dài 950m, rộng khoảng 650m, diện tích 0,32km2. Về yếu tố quân sự, đảo Hoàng Sa là đảo chính của quần đảo nhưng không phải là đảo lớn nhất. Nhiều nhà quân sự cho rằng đảo này có vị trí quan trọng nhất, hơn cả đảo Phú Lâm trong việc phòng thủ bờ biển ViệtNam. Trong thời gian chính quyền Việt Nam Cộng hòa quản lý, ở đảo này có nhà cửa, căn cứ quân sự, đài khí tượng, hải đăng, miễu Bà, cầu tàu và bia chủ quyền. Bia chủ quyền do người Pháp dựng lên năm 1938, ghi nhận lại chủ quyền chính thức của ViệtNam từ năm 1816. Cơ sở quân sự được thiết lập từ đầu thập niên 1930. Sang thập niên 1950, 1960, nhà cửa được xây cất thêm, tạm đủ cho sự trú phòng của một tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến. Bia chủ quyền ViệtNam được đặt gần giữa đảo. Nhà Nguyễn đã chính thức đặt chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa năm 1816.
Quần đảo Hoàng Sa tuy chỉ gồm một số đảo nhỏ giữa Biển Đông, có một thời không được các nước trong khu vực chú ý, không có cư dân sinh sống thường xuyên, chỉ có người Việt Nam ra khai thác theo mùa các tài nguyên như phân chim, tổ yến, san hô, đánh cá trong hàng thế kỷ. Nhưng cùng với sự tiến bộ của khoa học và kỹ thuật, sự xuất hiện các khái niệm về chủ quyền, lãnh hải, sự ra đời của luật biển, khả năng khai thác tài nguyên biển, nhất là dầu khí… thì các quốc gia có tiềm lực và tầm nhìn xa bắt đầu nhòm ngó quần đảo này như một cơ sở khí tượng thủy văn; quan trọng hơn là một cơ sở hậu cần và là căn cứ quân sự chiến lược có khả năng khống chế Biển Đông, đường giao thông trên biển và cả trên không trong khu vực, một cơ sở pháp luật để bành trướng chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải trên phần lớn Biển Đông nhằm khai thác các tài nguyên biển, nhất là dầu lửa và khí đốt.
5.2. Quần đảo Trường Sa
Quần đảo Trường Sa nằm giữa Biển Đông về phía Đông Namnước ta, phía Bắc là quần đảo Hoàng Sa, phía Đông giáp biển Philippin, phía Namgiáp biển Malaixia, Brunây và Inđônêxia. Từ trung tâm quần đảo Trường Sa đến biển của Malaixia khoảng 250 hải lý, đến biển của Philippin khoảng 201 hải lý, đến biển của Brunây khoảng 320 hải lý, đến đảo Nam Hải khoảng 585 hải lý và đến đảo Đài Loan khoảng 810 hải lý; cách Cam Ranh khoảng 243 hải lý, cách Vũng Tàu 440 hải lý. Quần đảo Trường Sa gồm trên 100 hòn đảo nhỏ và bãi san hô với diện tích vùng biển rộng khoảng 410.000 km2 nằm ở giữa vĩ độ 6030’ đến 120 Bắc và kinh độ 111030’ đến 117020’ Đông. Diện tích toàn bộ phần đất nổi của quần đảo khoảng 3km2, được chia làm 8 cụm (Song Tử, Loại Ta, Thị Tứ, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa, Thám Hiểm, Bình Nguyên), đảo cao nhất là Song Tử Tây (khoảng 4 – 6m), đảo lớn nhất là đảo Ba Bình (0,44 km2), sau đó là đảo Nam Yết (0,06 km2). Khoảng cách giữa các đảo cũng khác nhau, gần nhất từ đảo Song Tử Đông đến Song Tử Tây khoảng 1,5 hải lý, xa nhất Song Tử Tây (phía Bắc) đến An Bang (phía Nam) khoảng 280 hải lý.
Quần đảo Trường Sa án ngữ đường hàng hải quốc tế nối liền Thái Bình Dương với Ấn Độ Đương và Đại Tây Dương, giữa Châu Âu, Châu Phi, Trung Cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản với các nước Đông Nam Á và Đông Bắc Á, một tuyến đường huyết mạch có lưu lượng tàu thuyền tấp nập vào hàng thứ 2 trên thế giới (chỉ sau Địa Trung Hải). Trung bình mỗi ngày có từ 250 đến 300 tàu biển các loại đi qua Biển Đông, trong đó có 15 đến 20% tàu lớn trọng tải trên 30.000 tấn. Hiện nay trên các đảo và bãi san hô đã có một số công trình kiên cố và nhà ở, một số đảo đã có đèn biển, có luồng vào, trên luồng có thiết bị phao dẫn luồng và phao buộc tàu tạo thuận lợi cho tàu thuyền tránh giông bão. Tuy nhiên, việc điều động tàu vẫn rất khó khăn vì luồng hẹp, độ sâu hay thay đổi nên tàu thuyền ra vào phải nhằm thời tiết tốt và vào ban ngày.
Trên thềm san hô quần đảo Trường Sa có nhiều loại hải sản quý như: hải sâm, rùa biển, cá ngừ, tôm hùm, rong biển và các loại ốc có giá trị dinh dưỡng cao, nếu được khai thác, chế biến tốt sẽ mang lại thu nhập lớn cho nhân dân và và làm hàng hóa xuất khẩu thu lợi nhuận cao cho Nhà nước. Với vị trí ở giữa Biển Đông, quần đảo Trường Sa có thế mạnh về dịch vụ hàng hải, nghề cá đối với tàu thuyền đi lại và đánh bắt hải sản trong khu vực. Đồng thời là địa điểm du lịch hấp dẫn trong và ngoài nước. Trong một vài thập kỷ tới, tốc độ phát triển kinh tế cao của các nước trong khu vực (dự báo khoảng 7%/năm), khối lượng hàng hóa vận chuyển qua Biển Đông sẽ tăng gấp hai, ba lần hiện nay, khi đó Biển Đông nói chung, vùng biển thuộc quần đảo Trường Sa nói riêng có vai trò lớn trong thương mại quốc tế. Đặc biệt ngay sau khi xây dựng xong kênh KRA (ở Thái Lan) sẽ thu hút thêm một lượng tàu biển quốc tế lớn đi qua đây, tạo cơ hội cho chúng ta chia sẽ thị phần vận tải quốc tế, khi đó vùng biển Việt Nam và quần đảo Trường Sa sẽ trở thành chiếc “cầu nối” cực kỳ quan trọng để phát triển thương mại quốc tế và mở rộng giao lưu với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Sự liên kết giữa các đảo, cụm đảo, tuyến đảo của quần đảo Trường Sa tạo thành lá chắn quan trọng phía trước vùng biển và dải bờ biển Nam Trung Bộ và Nam Bộ, bảo vệ sườn phía Đông của đất nước, tạo thành một hệ thống cứ điểm tiền tiêu để ngăn chặn và đẩy lùi các hoạt động lấn chiếm của tàu thuyền nước ngoài. Vì thế từ lâu quần đảo Trường Sa luôn được các nhà quân sự, khoa học, chính trị đánh giá cao. Sau khi xâm lược nước ta và đánh giá cao vị trí chiến lược của quần đảo Trường Sa, người Pháp đã tổ chức khảo sát, đo đạc, biên vẻ bản đồ vùng Biển Đông trong đó có quần đảo Trường Sa. Trước khi tiến hành chiến tranh ở Thái Bình Dương, Nhật Bản đã chiếm quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa làm bàn đạp đánh chiếm Đông Dương, Xingapo, Inđônêxia. Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, Mỹ can thiệp, đưa quân vào miền Nam Việt Nam đã ủng hộ và tạo điều kiện cho chính quyền ngụy Sài Gòn đóng giữ đảo Trường Sa, ép chính phủ Philippin cho Mỹ lập căn cứ hải quân và không quân trên lãnh thổ Philippin để khống chế lực lượng quân sự của các nước trong khu vực và đường hàng hải quốc tế qua Biển Đông. Bàn về Biển Đông, nhiều nhà quân sự thế giới cho rằng ai làm chủ Trường Sa sẽ làm chủ Biển Đông.
II. MỘT SỐ NÉT VỀ BIỂN ĐẢO, HUYỆN ĐẢO TRƯỜNG SA VÀ THÀNH TỰU PHÁT TRIỂN KINH TẾ, VĂN HÓA VÀ BẢO VỆ QUỐC PHÒNG, AN NINH BIỂN ĐẢO CỦA TỈNH KHÁNH HÒA
1. Điều kiện tự nhiên và tiềm năng vùng biển đảo tỉnh Khánh Hòa
Khánh Hòa là tỉnh ven biển Nam Trung Bộ, diện tích 5.197 km2. Biển Khánh Hòa có chiều dài tính theo mép nước khoảng 385 km; có gần 200 đảo lớn, nhỏ gần bờ và trên 100 đảo, bãi đá ngầm thuộc quần đảo Trường Sa. Đặc biệt có 3 vịnh nổi tiếng là vịnh Vân Phong, vịnh Nha Trang và vịnh Cam Ranh. Dân số hơn một triệu người; có 9 đơn vị hành chính gồm thành phố Nha Trang, thành phố Cam Ranh, thị xã Ninh Hòa, các huyện: Vạn Ninh, Diên Khánh, Cam Lâm, Khánh Vĩnh, Khánh Sơn và Trường Sa. Trong đó có 6/9 đơn vị hành chính với 48/138 xã, phường tiếp giáp biển.
Khánh Hòa là một trong những tỉnh có lợi thế về tài nguyên biển, là một trung tâm kinh tế – văn hóa của khu vực Nam Trung bộ, đồng thời là trung tâm du lịch lớn của cả nước. Khánh Hòa có các đảo ven bờ và nhiều đầm, vịnh thuận lợi cho nghề cá ven bờ, phát triển du lịch và giao thông đường thủy. Khánh Hòa lại là vùng đất nằm nhô ra xa nhất về phía Đông ở nước ta, gần đường hàng hải quốc tế, thuận lợi cho vận tải tàu biển và dịch vụ đường thủy. Biển Khánh Hòa có nguồn tài nguyên phong phú, với nhiều loại hải, đặc sản quý hiếm, trong đó, yến sào là sản vật có giá trị xuất khẩu cao, được coi là “vàng trắng” ở nước ta. Tuy nằm trong khu vực duyên hải Nam Trung bộ, chịu ảnh hưởng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhưng khí hậu ở Khánh Hòa rất ôn hòa, quanh năm nắng ấm, mát mẻ, ít bị ảnh hưởng gió bão là điều kiện lý tưởng cho du lịch, nghỉ dưỡng, phục hồi sức khỏe…
Khánh Hòa có Viện Nghiên cứu biển Nha Trang, Trường Đại học Nha Trang, Viện Nghiên cứu thủy sản III là những trung tâm khoa học, tập trung nhiều nhà khoa học về biển của cả nước.
Đối với huyện đảo Trường Sa: Thời kỳ phong kiến và thuộc địa của Pháp, Trường Sa thuộc tỉnh Bà Rịa. Đến thời chính quyền Sài Gòn, Trường Sa thuộc tỉnh Phước Tuy. Sau khi thống nhất đất nước, huyện Trường Sa thuộc tỉnh Đồng Nai. Ngày 28/12/1982, Nghị quyết của Quốc hội (khóa VII), sát nhập huyện Trường Sa vào tỉnh Phú Khánh. Ngày 01/7/1989, tỉnh Phú Khánh tách ra thành tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, huyện đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Khánh Hòa. Ngày 11 tháng 4 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 65/2007/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính, thành lập huyện Cam Lâm; điều chỉnh địa giới hành chính để thành lập xã, thị trấn thuộc các huyện Cam Lâm, Trường Sa… Trong đó thành lập thị trấn Trường Sa thuộc huyện Trường Sa trên cơ sở đảo Trường Sa lớn và các đảo, đá, bãi phụ cận; thành lập xã Song Tử Tây thuộc huyện Trường Sa trên cơ sở đảo Song Tử Tây và các đảo, đá, bãi phụ cận; thành lập xã Sinh Tồn thuộc huyện Trường Sa trên cơ sở đảo Sinh Tồn và các đảo, đá, bãi phụ cận.
2. Chủ trương phát triển biển đảo và một số kết quả phát triển kinh tế – xã hội vùng biển đảo của tỉnh Khánh Hòa
Nhận thức tầm quan trọng và lợi thế của địa phương về phát triển kinh tế biển, trong các nhiệm kỳ đại hội Đảng bộ tỉnh đã xây dựng và triển khai thực hiện nhiều nghị quyết, chương trình về phát triển kinh tế biển. Đặc biệt, giữa tháng 4/2007, Tỉnh ủy đã xây dựng và ban hành Chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 trên địa bàn tỉnh với mục tiêu: Xây dựng và phát triển toàn diện các lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học – công nghệ, bảo vệ môi trường, tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh. Phấn đấu đến năm 2020 đưa Khánh Hòa trở thành tỉnh mạnh về kinh tế biển bảo đảm vững chắc chủ quyền quốc gia trên biển đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng đất nước giàu mạnh.
Quán triệt và thực hiện tinh thần đó, những năm qua Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh đã tập trung nhiều nguồn lực khai thác và phát huy hiệu quả những tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế biển, nhất là các lĩnh vực dịch vụ hàng hải, du lịch biển đảo với cơ cấu ngành, nghề phong phú, từng bước hiện đại. Tỉnh đã chú trọng rà soát, bổ sung quy hoạch xây dựng hệ thống cảng biển, các cơ sở đóng tàu, hệ thống vận tải biển, phát triển kinh tế thủy sản. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế – xã hội với bảo đảm quốc phòng – an ninh và bảo vệ môi trường; tăng cường hợp tác quốc tế, vừa phát triển kinh tế, vừa bảo vệ chủ quyền quốc gia. Phát triển kinh tế trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trên địa bàn tỉnh thuộc chủ quyền và quyền tài phán của nước ta, đồng thời từng bước khai thác tài nguyên biển ở hải phận quốc tế. Xây dựng các trung tâm kinh tế, khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất lớn ở vùng duyên hải gắn với các hoạt động kinh tế biển để làm động lực quan trọng đối với sự phát triển đất nước. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển vùng biển, hải đảo với phát triển vùng nội địa.
Chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh ngày càng được định hình rõ nét, tạo nền tảng cho giai đoạn mới. Từng bước đầu tư kết cấu hạ tầng thiết yếu cho 3 vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh; các công trình dân dụng, công nghiệp có quy mô lớn, kỹ thuật phức tạp và chất lượng cao đang được xúc tiến triển khai. Không chỉ phát huy nội lực, những năm qua Khánh Hòa còn gắn kết với các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên cùng phát triển kinh tế biển. Trong đó, chú trọng đầu tư các dự án phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội kết nối với các địa phương lân cận vừa thể hiện vai trò trung tâm trong khu vực, vừa góp phần tạo nên diện mạo mới về kết cấu hạ tầng cho địa phương. Hệ thống đường giao thông ven biển của tỉnh về cơ bản được hình thành và kết nối từ Bắc xuống Nam, trong đó đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng đường Phạm Văn Đồng nối thành phố Nha Trang với quốc lộ 1A và đại lộ Nguyễn Tất Thành nối thành phố Nha Trang với huyện Cam Lâm và thành phố Cam Ranh. Các trục đường ven biển được kết nối gần hoàn chỉnh giữa thị xã Ninh Hòa và huyện Vạn Ninh.
Khu kinh tế Vân Phong đã thu hút được nhiều dự án đầu tư trong và ngoài nước, với vốn đăng ký khoảng 15,31 tỷ USD. Trong đó, cảng trung chuyển container quốc tế giữ vai trò chủ đạo, kết hợp kinh tế đa ngành, đa lĩnh vực với trọng tâm phát triển công nghiệp, du lịch, dịch vụ, nuôi trồng thủy sản. Hiện nay, Khu kinh tế đang thu hút nhiều dự án với tổng vốn đầu tư lớn và có tính khả thi cao như: Trung tâm Điện lực Vân Phong có tổng vốn đầu tư 3,8 tỷ USD, Tổ hợp lọc hóa dầu 4,8 tỷ USD; kho xăng dầu ngoại quan; khu căn cứ dịch vụ hậu cần dầu khí… Việc đầu tư và phát triển Khu kinh tế Vân Phong có vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế biển của tỉnh cũng như khu vực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.
Cảng hàng không quốc tế Cam Ranh được hình thành và đi vào hoạt động, tạo cơ hội thuận lợi cho việc thu hút trực tiếp du khách quốc tế không chỉ đến với Khánh Hòa mà cho cả Ninh Thuận, các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, tạo mối liên kết hợp tác phát triển trong lĩnh vực du lịch; Cảng hàng hóa Ba Ngòi đang được đầu tư và nâng cấp để đón tàu có trọng tải lớn, không chỉ phục vụ nhu cầu kinh tế – xã hội của tỉnh, khu vực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên mà còn góp phần bổ sung năng lực vận tải biển cho cả nước.
Thành phố Nha Trang với mục tiêu xây dựng thành trung tâm du lịch lớn của cả nước và là trung tâm tổ chức các sự kiện có ý nghĩa của quốc gia và quốc tế; là trung tâm kinh tế, khoa học kỹ thuật và giáo dục đào tạo của vùng Duyên hải Nam Trung bộ. Nơi đây đã diễn ra các hội nghị chuyên đề của quốc gia và quốc tế; tổ chức thành công nhiều cuộc thi hoa hậu ViệtNam, thế giới và Festival Biển… Khai thác và đưa vào sử dụng các khu du lịch nổi tiếng trong nước và thế giới. Nhiều dự án mở rộng cơ sở hạ tầng và đô thị về phía Tây đang được triển khai thực hiện mạnh mẽ.
Với những nỗ lực đó, kinh tế biển nói riêng, kinh tế – xã hội của tỉnh nói chung phát triển khá. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của địa phương đạt tương đối cao và ổn định trong nhiều năm. Khánh Hòa là một trong các tỉnh thành có số thu ngân sách lớn nhất cả nước, đóng góp đáng kể cho ngân sách Trung ương. Trong cơ cấu kinh tế, lĩnh vực du lịch – dịch vụ chiếm tỷ lệ cao (43,5%). Phát huy những kết quả đạt được, những năm tới tỉnh huy động tối đa nội lực khai thác tiềm năng, lợi thế biển đảo trên địa bàn một cách đồng bộ, hiệu quả và bền vững. Phấn đấu khai thác tiềm lực kinh tế biển một cách đồng bộ, hiệu quả và bền vững, đưa kinh tế biển và ven biển chiếm tỷ lệ cao trong GDP toàn tỉnh; giữ vững ổn định chính trị, chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia trên biển đảo; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện đời sống nhân dân vùng biển, ven biển nói riêng, nhân dân cả tỉnh nói chung.
3. Công tác tuyên truyền biển đảo trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa
Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng to lớn của biển đảo đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bám sát định hướng của Ban Tuyên giáo Trung ương, tình hình thực tiễn và yêu cầu nhiệm vụ chính trị của tỉnh, trong những năm qua, công tác tuyên truyền biển đảo ở Khánh Hòa đã được triển khai chủ động, tích cực và khá toàn diện.
Hàng năm, Tỉnh ủy có nghị quyết về quốc phòng – an ninh, trong đó xác định nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền gắn với phát triển kinh tế biển đảo là nhiệm vụ trọng tâm của tỉnh và đặc biệt là tỉnh có huyện đảo Trường Sa, để định hướng, chỉ đạo và tổ chức công tác tuyên truyền biển đảo. Đồng thời, chỉ đạo đẩy mạnh thực hiện Chương trình hành động của Tỉnh ủy triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa X) về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 trên địa bàn tỉnh gắn với thực hiện Chương trình kinh tế biển của tỉnh giai đoạn 2006 – 2010, là một chương trình kinh tế trọng điểm của tỉnh.
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã xây dựng Kế hoạch tuyên truyền biển đảo, định hướng mục đích yêu cầu, nội dung tuyên truyền, hình thức tuyên truyền và phân công thực hiện. Trên cơ sở Chương trình phối hợp tuyên truyền biển đảo giữa Bộ Tư lệnh Hải quân và Tỉnh ủy Khánh Hòa, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã chủ động làm việc với lãnh đạo Học viện Hải quân, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh xây dựng Kế hoạch phối hợp tuyên truyền biển đảo. Từ đó chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện công tác tuyên truyền biển đảo từ tỉnh đến cơ sở một cách thường xuyên, đảm bảo chất lượng, hiệu quả và phù hợp từng loại đối tượng và địa bàn.
Trong năm 2010, với những việc làm thiết thực đầy ý nghĩa của tỉnh Khánh Hòa hướng về huyện đảo Trường Sa, trong các chuyến đi thăm và làm việc với cán bộ và nhân dân huyện đảo Trường Sa đều có lãnh đạo tỉnh, các ban, ngành, đoàn thể, các địa phương và các cơ quan thông tin đại chúng của tỉnh. Từ những vấn đề đặt ra trong chuyến công tác, công tác tuyên truyền biển đảo được triển khai mạnh mẽ và có hiệu quả, góp phần đưa thông tin của Trường Sa về đất liền và chuyển tải những thành tựu, những tình cảm của hậu phương, tạo niềm tin vững chắc cho quân và dân huyện đảo Trường Sa… Đặc biệt, nhân kỷ niệm 35 năm Ngày giải phóng tỉnh Khánh Hòa, giải phóng quần đảo Trường Sa và giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, tỉnh đã tổ chức nhiều hoạt động có ý nghĩa hướng về Trường Sa. Lãnh đạo tỉnh cùng Bộ Tư lệnh Hải quân tổ chức Lễ mít tinh trọng thể kỷ niệm 35 năm giải phóng quần đảo Trường Sa trên đảo Song Tử Tây; tổ chức trang trọng Lễ tiếp nhận cây bàng vuông và đá san hô biểu tượng chủ quyền quốc gia trên biển do Quân chủng Hải quân, quân và dân huyện đảo Trường Sa gửi tặng…
Công tác tuyên truyền biển đảo được các cấp, các ngành, các địa phương trong tỉnh thực hiện với nội dung phù hợp, hình thức đa dạng, phong phú, sâu rộng. Toàn tỉnh, triển khai thực hiện Đề án đẩy mạnh công tác tuyên truyền về quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững biển và hải đảo Việt Nam; tổ chức chiến dịch truyền thông Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam. Tiến hành các hoạt động treo băng rôn, pa nô, áp phích, khẩu hiệu về chủ đề biển đảo; tổ chức hội nghị cấp tỉnh tọa đàm về chủ đề biển đảo và tổ chức hoạt động làm sạch bờ biển…
Các cơ quan báo chí luôn xác định tuyên truyền biển đảo là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Những mảng đề tài được báo, đài quan tâm xây dựng với các chuyên mục định kỳ về biển đảo như: chuyên mục quốc phòng, an ninh, du lịch, hội nhập kinh tế… Báo Khánh Hòa, Đài Phát thanh – Truyền hình Khánh Hòa đã sản xuất, phát sóng hàng trăm tin, hàng chục phóng sự và hàng chục phim tài liệu tuyên truyền về biển đảo và huyện Trường Sa. Ngoài việc tuyên truyền ở địa bàn tỉnh, báo, đài còn chọn lọc chuyển tải các tin, bài, phóng sự đăng phát trên các báo, đài Trung ương. Đồng thời, Đài còn phối hợp với Quân chủng Hải quân đưa vào phát trên sóng truyền hình của Đài mỗi tháng một chương trình phản ánh các mặt hoạt động của Quân chủng Hải quân.
Các hoạt động văn hóa, văn nghệ phản ánh và phục vụ công tác tuyên truyền biển đảo được tỉnh đặc biệt quan tâm, đã cử nhiều đoàn văn nghệ chuyên nghiệp, nhiều văn nghệ sĩ đi phục vụ và sáng tác tại các đảo xa; dàn dựng các chương trình giao lưu văn nghệ với các chiến sĩ. Phong trào sáng tác nghệ thuật về đề tài người lính đảo đã được nhiều phóng viên, văn nghệ sĩ thực hiện nhân dịp các ngày lễ lớn của đất nước, của tỉnh và những đợt tuyên truyền khẳng định chủ quyền biển đảo…
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh phối hợp Bộ đội Biên phòng, các doanh nghiệp, đơn vị đã vận động xây dựng được 110 căn nhà “Mái ấm cho người nghèo nơi biên cương, hải đảo” và nhiều công trình dân sinh cho các đối tượng chính sách, người nghèo. Ngoài ra, tuyên truyền ngư dân tham gia đánh bắt xa bờ bảo vệ chủ quyền vùng biển đảo. Các đồn biên phòng đã trực tiếp phát cho ngư dân 1.400 tờ rơi về phòng chống lụt bão, 1.000 tờ rơi về bảo vệ giàn khoan, 2.500 tờ rơi về đường ống dẫn khí dưới biển…
Đoàn Thanh tiên tỉnh tổ chức cuộc vận động “Nghĩa tình biên giới, hải đảo” trong lực lượng thanh niên toàn tỉnh. Các cơ sở Đoàn thường xuyên tổ chức các hội thi tuyên truyền ca khúc cách mạng với chủ đề “Hát về biển, đảo quê hương”, giao lưu văn nghệ với chủ đề “Vì Trường Sa thân yêu”….
Một số doanh nghiệp của tỉnh tham gia phát triển kinh tế biển đảo gắn với thực hiện nhiệm vụ quốc phòng – an ninh. Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Yến sào Khánh Hòa với đặc thù quản lý các vùng biển, đảo yến, đã thành lập lực lượng tự vệ biển. Cán bộ, chiến sĩ tự vệ được huấn luyện nghiệp vụ bảo vệ an ninh tuyến biển đảo. Ngoài nhiệm vụ tham gia sản xuất, đã thường xuyên phố hợp với Công an tỉnh, Bộ đội Biên phòng tỉnh, Công an thành phố Nha Trang, dân quân các phường, xã ven biển trong toàn tỉnh tuần tra, kiểm soát vùng biển đảo, tổ chức các tổ trực phòng không quan sát bảo vệ bầu trời, vùng biển… Ngoài ra, Công ty kết hợp nuôi trồng thủy sản hành lang ven biển tại các đảo yến với các loại hải sản cao cấp, góp phần giải quyết việc làm cho người dân địa phương và thực hiện công tác tuyên truyền biển đảo ở các địa bàn Công ty đóng chân.
4. Một số nhiệm vụ trọng tâm tuyên truyền biển đảo
Một là, Thực hiện chương trình phối hợp tuyên truyền biển đảo giữa Bộ Tư lệnh Hải quân và Tỉnh ủy Khánh Hòa là một giải pháp quan trọng triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa X) “về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”. Trên cơ sở định hướng của Ban Tuyên giáo Trung ương, Cục Chính trị Bộ Tư lệnh Hải quân, xuất phát từ thực tiễn, Ban Tuyên giáo các cấp chủ động xây dựng kế hoạch tuyên truyền biển đảo; tổ chức ký kết Chương trình phối hợp tuyên truyền với các ngành, các đơn vị liên quan. Những nội dung hai bên đã ký kết là phù hợp, gồm những vấn đề các bên phải thực hiện, những vấn đề đòi hỏi phải hiệp đồng, hoặc liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, để tạo sự thống nhất cao trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện mới đạt được mục tiêu yêu cầu đề ra.
Hai là, Tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện của các cấp ủy đảng, chính quyền, các ban ngành đoàn thể về công tác phối hợp tuyên truyền biển đảo. Thường kỳ, trong đánh giá công tác tuyên truyền nói chung cần đánh giá công tác tuyên truyền biển đảo; cuối năm có sơ kết hoặc tổng kết đánh giá kết quả cụ thể. Những đơn vị, cá nhân hoàn thành tốt nhiệm vụ này cần có những hình thức biểu dương khen thưởng xứng đáng, nhằm động viên khích lệ kịp thời.
Ba là, Đổi mới công tác chỉ đạo, hướng dẫn tuyên truyền, sử dụng lồng ghép nhiều hình thức, biện pháp phối hợp tuyên truyền. Vận dụng nhiều hình thức, biện pháp phù hợp với điều kiện của mỗi địa phương và các lực lượng của Hải quân, Bộ đội Biên phòng. Bám sát chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; các sự kiện lịch sử, chính trị, các phong trào… để duy trì công tác tuyên truyền thường xuyên và tổ chức các chiến dịch tuyên truyền đạt hiệu quả.
Bốn là, Phát huy vai trò, tác dụng to lớn của các phương tiện thông tin đại chúng trong nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền biển đảo. Cần bồi dưỡng nâng cao ý thức và kiến thức về quốc phòng an ninh, bảo vệ chủ quyền và phát triển kinh tế biển đảo để đội ngũ người làm công tác tuyên truyền và các nhà báo nâng cao chất lượng nội dung thông tin, phản ánh sâu sắc các mặt công tác của lĩnh vực này; cần khai thác, phát huy sở trường của từng phương tiện thông tin đại chúng tạo được mạng lưới tuyên truyền rộng khắp, tác động nhiều hướng và liên tục đạt được mục tiêu tuyên truyền. Trong đó Báo, Đài địa phương cần duy trì thường xuyên có chất lượng các chuyên trang, chuyên mục về tuyên truyền biển đảo.
* *
*
Công tác bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là trách nhiệm của toàn dân và phải được tiến hành trên mọi lĩnh vực ngoại giao, quốc phòng và tuyên truyền giáo dục. Để thực hiện công tác này hiệu quả trong thời gian tới, chúng ta cần nhanh chóng hoàn thiện Luật về các vùng biển Việt Nam, cùng với các văn bản khác, tạo nên một khung pháp lý vững chắc, tăng cường hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực dầu khí, thủy sản, lắp đặt cáp quang và các tài nguyên biển khác tại khu vực hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học biển, đẩy mạnh hơn nữa việc tuyên truyền nâng cao nhận thức cho mọi tầng lớp nhân dân về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Theo hướng đó, chúng ta kiên trì giải quyết bất đồng, tranh chấp với Trung Quốc và các nước hữu quan khác về vấn đề Biển Đông cũng như các vấn đề về biên giới lãnh thổ thông qua thương lượng hòa bình; coi trọng và giải quyết kịp thời các vấn đề mới nảy sinh, không để ảnh hưởng đến môi trường hòa bình, ổn định và quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước; đẩy mạnh công tác đàm phán, phân định biển với các nước láng giềng; tăng cường hợp tác trên biển theo tinh thần Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 và Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông, theo đó các bên tranh chấp liên quan có nghĩa vụ cùng nhau giữ gìn hòa bình, ổn định trên Biển Đông, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, không có bất kỳ hành động nào làm phức tạp thêm tình hình.
Vấn đề bảo vệ chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một vấn đề thiêng liêng, trọng đại và cũng hết sức khó khăn phức tạp, lâu dài. Việc làm này đòi hỏi trí tuệ, công sức và sự đóng góp, cộng tác chặt chẽ của các cấp, các ngành, của nhiều người, nhiều thế hệ của dân tộc Việt Nam. Trong đó công tác tuyên truyền làm rõ chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong hoạt động đấu tranh, khẳng định, bảo vệ chủ quyền biển đảo và phát triển kinh tế – xã hội vùng biển đảo có ý nghĩa quan trọng, cấp thiết, thường xuyên, liên tục và lâu dài. Với những nỗ lực và bền bỉ của mình, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã và đang góp phần tích cực vào việc duy trì, củng cố hòa bình, ổn định và phát triển bền vững trong khu vực và trên thế giới./.
BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY KHÁNH HÒA