Tình hình biển, đảo và công tác tuyên truyền biển đảo 2013

324

TÀI LIỆU CHUYÊN ĐỀ

(Tài liệu lưu hành nội bộ phục vụ công tác tuyên truyền miệng)

          

     ban tuyên giáo TỈNH ỦY KHÁNH HÒA                    SỐ 06 TRẦN HƯNG ĐẠO – NHA TRANG

TRUNG TÂM THÔNG TIN CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO                  ĐT:3826097

                                          

 

TÌNH HÌNH BIỂN, ĐẢO VÀ CÔNG TÁC TRUYÊN TRUYỀN

BIỂN, ĐẢO NĂM 2013

 

Phần thứ nhất

KHÁI QUÁT VỀ BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM

THÀNH TỰU PHÁT TRIỂN KINH TẾ, VĂN HÓA VÀ BẢO VỆ

QUỐC PHÒNG, AN NINH BIỂN, ĐẢO CỦA TỈNH KHÁNH HÒA

I. Khái quát về biển, đảo Việt Nam

1. Vị trí địa lý

Biển và đại dương được các nhà khoa học gọi là “Lục địa xanh”, phủ kín 70,8% bề mặt trái đất và đang “cất giấu” những kho nguyên liệu, khoáng vật khổng lồ dưới dạng hòa tan trong nước, lắng đọng dưới đáy và vùi kín dưới lòng đại dương. Do có đặc thù như vậy nên nhiều vùng biển, đại dương đang là nơi tranh chấp trên thế giới, nhất là đối với những nước lớn ở gần biển và đại dương có sức mạnh về kinh tế và quân sự.

Biển Đông là một biển nửa kín, nằm ở rìa Tây Thái Bình Dương, với diện tích khoảng 3,5 triệu km2 trải rộng từ vĩ độ 30 lên đến vĩ độ 260 Bắc và từ kinh độ 1000 đến 1210 Đông. Biển Đông tiếp giáp với 9 nước là Việt Nam, Trung Quốc, Philippin, Inđônêxia, Bruney, Malayxia, Singapore, Thái Lan, Campuchia và một vùng lãnh thổ là Đài Loan. Biển Đông có vị trí chiến lược đối với các nước trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương nói riêng và các quốc gia khác trên thế giới.

Việt Nam là quốc gia ven biển nằm bên bờ Tây của Biển Đông, có địa chính trị và địa kinh tế rất quan trọng không phải bất kỳ quốc gia nào cũng có. Với bờ biển dài trên 3.260 km trải dài từ Bắc xuống Nam, đứng thứ 27 trong số 157 quốc gia ven biển, các quốc đảo và các lãnh thổ trên thế giới. Chỉ số chiều dài bờ biển trên diện tích đất liền của nước ta là xấp xỉ 0,01 (nghĩa là cứ 100 km2 đất liền có 1km bờ biển). Trong 63 tỉnh, thành phố của cả nước thì 28 tỉnh, thành phố có biển và gần một nửa dân số sinh sống tại các tỉnh, thành ven biển. Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, biển đảo luôn gắn với quá trình xây dựng và phát triển của đất nước và con người Việt Nam.

Vùng biển nước ta bao gồm cả vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

Theo Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982, nước ta có diện tích biển khoảng trên 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền, chiếm gần 30% diện tích Biển Đông (cả Biển Đông gần 3,5 triệu km2). Vùng biển nước ta có khoảng 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ và 2 quần đảo xa bờ là Hoàng Sa và Trường Sa, được phân bố khá đều theo chiều dài của bờ biển đất nước, với vị trí đặc biệt quan trọng như một tuyến phòng thủ tiền tiêu để bảo vệ sườn phía Đông của đất nước. Một số đảo ven bờ còn có vị trí quan trọng được sử dụng làm các điểm mốc quốc gia trên biển để thiết lập đường cơ sở ven bờ lục địa Việt Nam, từ đó xác định vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, làm cơ sở pháp lý để bảo vệ chủ quyền quốc gia trên các vùng biển.

Theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, các quốc gia ven biển có 05 vùng biển gồm: Nội thủy nằm bên trong đường cơ sở; lãnh hải có chiều rộng 12 hải lý; vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở; riêng thềm lục địa có thể kéo dài ra tới 350 hải lý. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuyên bố chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia đối với các vùng biển nói trên:

(1) Nội thủy: Là vùng nước nằm ở phía trong đường cơ sở của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nội thủy được coi như lãnh thổ trên đất liền, đặt dưới chủ quyền toàn vẹn đầy đủ và tuyệt đối của quốc gia Việt Nam.

Đường cơ sở: là đường ranh giới phía trong của lãnh hải và phía ngoài của nội thủy, do quốc gia ven biển hay quốc gia quần đảo định ra phù hợp với Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 để làm cơ sở xác định phạm vi của các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán quốc gia. Là đường dùng làm căn cứ để tính chiều rộng lãnh hải và các vùng biển khác. Có 2 loại đường cơ sở:

– Đường cơ sở thông thường: Là đường sử dụng ngấn nước thủy triều thấp nhất ven bờ biển hoặc hải đảo.

– Đường cơ sở thẳng: Là đường nối các điểm hoặc đảo nhô ra nhất của bờ biển lục địa hoặc đảo. Đường cơ sở thẳng áp dụng khi bờ biển quốc gia ven biển bị chia cắt hoặc có chuỗi đảo gắn liền và chạy dọc theo bờ biển.

Nước ta có chuỗi đảo chạy dọc theo bờ biển được vận dụng để xác định đường cơ sở thẳng. Năm 1982, Chính phủ nước ta ra tuyên bố xác định đường cơ sở thẳng ven bờ lục địa Việt Nam gồm 10 đoạn nối 11 điểm. Trừ điểm A8 nằm trên mũi Đại Lãnh, các điểm còn lại đều nằm trên các đảo. Điểm 0 nằm trên ranh giới phía Tây Nam của vùng nước lịch sử Việt Nam – Campuchia. Điểm A1: Hòn Nhạn (Kiên Giang); A2: Hòn Đá Lẻ (Cà Mau); A3: Hòn Tài Lớn; A4: Hòn Bông Lan; A5: Hòn Bảy Cạnh (Bà Rịa – Vũng Tàu); A6: Hòn Hải (Bình Thuận); A7: Hòn Đôi (Khánh Hòa); A8: Mũi Đại Lãnh (Phú Yên); A9: Hòn Ông Căn (Bình Định); A10: Đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi); A11: Đảo Cồn Cỏ (Quảng Trị).

(2) Lãnh hải: Lãnh hải của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam rộng 12 hải lý (01 hải lý tương đương 1.852m), ở phía ngoài đường cơ sở. Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới của quốc gia ven biển. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải của mình cũng như đối với vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải. Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982, chủ quyền đối với vùng lãnh hải không phải là tuyệt đối như vùng nội thủy, tàu thuyền các nước khác được “đi qua không gây hại” trong lãnh hải. Các quốc gia ven biển có quyền ấn định các tuyến đường, quy định việc phân chia các luồng giao thông dành cho tàu nước ngoài đi qua lãnh hải nhằm bảo đảm chủ quyền, an ninh quốc gia và lợi ích của mình.

(3) Vùng tiếp giáp lãnh hải: Vùng tiếp giáp lãnh hải của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là vùng biển tiếp liền phía ngoài lãnh hải Việt Nam có chiều rộng 12 hải lý, hợp với lãnh hải thành một vùng rộng 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của Việt Nam. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện sự kiểm soát cần thiết trong vùng tiếp giáp lãnh hải của mình nhằm bảo vệ quyền lợi về hải quan, thuế khóa, đảm bảo sự tôn trọng các quy định về y tế, di cư, nhập cư trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải Việt Nam.

(4) Vùng đặc quyền kinh tế: Vùng đặc quyền kinh tế của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp liền vùng lãnh hải và hợp với vùng lãnh hải thành vùng biển rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của Việt Nam. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn về việc thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lý tất cả các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật và không sinh vật ở vùng nước, ở đáy biển và trong lòng đất dưới đáy biển của vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam; có quyền và thẩm quyền riêng biệt về các hoạt động khác phục vụ cho việc thăm dò và khai thác vùng đặc quyền kinh tế nhằm mục đích kinh tế; có thẩm quyền riêng biệt về nghiên cứu khoa học trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam; có thẩm quyền trong bảo vệ môi trường, chống ô nhiễm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

(5) Thềm lục địa: Thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển thuộc phần kéo dài tự nhiên của lục địa mở rộng ra ngoài lãnh hải Việt Nam cho đến bờ ngoài của rìa lục địa; nơi nào bờ ngoài của rìa lục địa cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam không đến 200 hải lý thì thềm lục địa nơi ấy mở rộng ra 200 hải lý kể từ đường cơ sở đó. Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982, nước nào có thềm lục địa tự nhiên quá rộng thì thềm lục địa có thể mở rộng ra không quá 350 hải lý kể từ đường cơ sở. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn về mặt thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lý tất cả các tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa Việt Nam bao gồm tài nguyên khoáng sản, tài nguyên không sinh vật và tài nguyên sinh vật thuộc loại định cư ở thềm lục địa Việt Nam.

2. Việt Nam là Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền và là quốc gia duy nhất quản lý liên tục đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp với quy định của luật pháp quốc tế

Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ lâu đã là lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam. Chúng ta hoàn toàn có đầy đủ căn cứ khoa học một cách vững chắc cả về lịch sử và pháp lý phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế. Nhà nước Việt Nam từ lâu đã chiếm hữu thật sự quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa khi hai quần đảo chưa thuộc chủ quyền của bất cứ quốc gia nào và liên tục thực hiện chủ quyền thực sự của mình đối với hai quần đảo này.  

2.1.Văn bản lịch sử của Việt Nam

Thời Lê Thánh Tông (1460 – 1497), trong “Toàn tập Thiên Nam tứ chi lộ đồ thư” ta đã vẽ bản đồ Hoàng Sa và Trường Sa, lúc đó ta gọi là “bãi cát vàng” và “Vạn lý Trường Sa”. (Nguyên bản này hiện đang lưu giữ tại Tokyo – Nhật Bản).

Vào nửa đầu thế kỷ XVII, Chúa Nguyễn tổ chức “Đội Hoàng Sa”, lấy người từ xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi ra quần đảo Hoàng Sa thu lượm hàng hóa của các tàu đắm, đánh bắt hải sản quý hiếm mang về dâng nộp triều đình; đồng thời đo vẽ, trồng cây và dựng mốc trên quần đảo. Chúa Nguyễn tổ chức thêm “Đội Bắc Hải”, lấy người từ thôn Tứ Chính, xã Cảnh Dương, phủ Bình Thuận, cấp giấy phép ra quần đảo Trường Sa làm nhiệm vụ như Đội Hoàng Sa. Khi nhà vua cử các đội đi Hoàng Sa, đã biết rằng cuộc ra đi vô cùng khó khăn, nên đã cho mỗi người lính mang theo một đôi chiếu, 7 đòn tre, 7 sợi dây lạt và một tấm thẻ Bài có khắc tên họ, bản quán để phòng xa, nếu hy sinh thì đồng đội sẽ bỏ xác vào chiếu thả trôi trên biển. Trước khi lên đường, thường là vào tháng Hai Âm lịch, thì làm lễ gọi là “Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa”. Đồng thời làm những “ngôi mộ gió”, nơi chôn những hình nhân tượng trưng cho những người lính hy sinh ở Hoàng Sa. Một trong những người lính đó là Phạm Hữu Nhật cách đây hơn 170 năm đã có bia mộ trên triền núi ở Lý Sơn “Phục vị vong Cao Bình Quận Phạm Hữu Nhật thần hồn chi linh vị. Sanh Giáp Tý (1804), Giáp Dần (1854) tôn diệt phong tự”.

Thế kỷ XVIII, trong “Đại Nam nhất thống toàn đồ” đã ghi rõ Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa là một trong những đảo của Việt Nam.

Năm Bính Thân, niên hiệu Minh Mạng thứ 17 (1836) Bộ Công dâng sớ tâu lên Vua: Xứ Hoàng Sa thuộc cương vực biển nước ta, hết sức hiểm yếu. Sách Đại Nam nhất thống trí viết “Phía Đông có bãi cát nằm ngang (đảo Hoàng Sa) liền với biển xanh làm hào bao che”.

Cùng với nhiệm vụ khai thác hải sản và hàng hóa trên quần đảo, nhà Nguyễn còn tổ chức đo đạc, khảo sát, dựng bia, cắm mốc, trồng cây trên quần đảo… liên tục trong các năm 1834, 1835, 1836. Thông qua việc tổ chức khai thác tài nguyên trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa liên tục hàng thế kỷ, trên thực tế cũng như về pháp lý, nhà Nguyễn đã làm chủ hai quần đảo này còn chưa thuộc về lãnh thổ của bất kỳ quốc gia nào và biến hai quần đảo từ vô chủ thành bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam.

Các hoạt động của Nhà Nguyễn tại Hoàng Sa và Trường Sa được lưu lại không chỉ trong tài liệu lịch sử của nhiều tác giả trong nước. Trong “Toàn tập Thiên nam tứ chí lộ đồ thư” của Đỗ Bá tự Công Đạo (1686); “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn (1776) đã tả kỹ về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Phan Huy Chú (1782 – 1840) trong sách “Lịch triều hiến chương loại chí” và “Hoàng Việt địa dư chí” còn mô tả việc quản lý Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn Đại Nam thực lục tiền biên (1844 – 1848), Đại Nam thực lục chính biên, Đại Nam nhất thống chí… Gần đây, chúng ta đã phát hiện thêm nhiều thư tịch, gia phả, tài liệu thời nhà Nguyễn ghi lại các hoạt động về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Việc thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa, thời thuộc Pháp: từ ngày 6/6/1884, sau khi triều Nguyễn ký với Pháp Hiệp ước Giáp Thân, công nhận sự thống trị của thực dân Pháp đối với Việt Nam. Từ đó, Pháp thực hiện chủ quyền với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Năm 1887, Pháp và triều đình Mãn Thanh ký công ước hoạch định biên giới trên bộ và trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam.

Ngày 15/6/1938, Toàn quyền Đông Dương I.Brévie ký Nghị định số 156-SC, quyết định tổ chức đơn vị hành chính quần đảo Hoàng Sa, thuộc tỉnh Thừa Thiên. Ngày 21/12/1933, Thống đốc Nam kỳ Krautheimer đã ký Nghị định số 4762-CP, sáp nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa. Ngày 14/10/1950, Chính phủ Pháp chính thức bàn giao hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho chính quyền của Bảo Đại quản lý. Tướng Phan Văn Giáo lúc đó là Thủ hiến Trung Phần đã đích thân đến đảo Hoàng Sa để chủ tọa buổi lễ.

Sau khi thực dân Pháp thiết lập được ách đô hộ ở Việt Nam, nhân danh Vương quốc An Nam theo Hiệp ước Giáp Tuất (năm 1874) cũng như Hiệp ước Patenôtre năm 1884, chính quyền thực dân Pháp ở Việt Nam đã chính thức chiếm hữu Hoàng Sa và Trường Sa trong tình trạng không có nước nào chiếm hữu. Sau đó, Bộ Ngoại giao Pháp đã có một thông tri đăng trên công báo Pháp ngày 26/7/1933 về sự chiếm hữu hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Suốt thời gian từ 1927 đến 1945, chính quyền thực dân Pháp ở Việt Nam luôn khẳng định chủ quyền của Việt Nam, chưa bao giờ từ bỏ chủ quyền Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Tháng 9/1951, tại Hội nghị San Franxitco, ông Trần Văn Hữu, Thủ tướng Chính phủ của Bảo Đại, trưởng phái đoàn của Việt Nam đã tuyên bố chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, sau khi Nhật đã trả lại tất cả lãnh thổ họ đã chiếm cứ trong chiến tranh thế giới thứ II, 51 quốc gia tham dự, đều thống nhất không có ý kiến phản đối. Về hành chính năm 1956, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa quyết định quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Tuy Phước và chuyển quần đảo Hoàng Sa từ tỉnh Thừa Thiên về tỉnh Quảng Nam quản lý (1961).

Khi Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm các đảo phía Đông (tháng 4/1956) và các đảo phía Tây (tháng 01/1974) quần đảo Hoàng Sa, chính quyền Việt Nam trong mỗi thời kỳ đã cực lực lên án và kiên quyết phản đối.

Tháng 4/1975, Hải quân nhân dân Việt Nam giải phóng các đảo ở Trường Sa do quân đội Sài Gòn đóng giữ, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và tuyên bố quyền bảo vệ chủ quyền đó.

Sau khi thống nhất đất nước, với tư cách kế thừa quyền sở hữu các quần đảo từ các chính quyền trước, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có trách nhiệm duy trì việc bảo vệ chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và đã ban hành nhiều văn bản pháp lý quan trọng liên quan trực tiếp đến hai quần đảo này. Trong đó, có Luật Biên giới quốc gia năm 2003, Tuyên bố của Chính phủ ngày 12/11/1977 về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, Tuyên bố của Chính phủ ngày 12/11/1982 về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam đều khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một bộ phận lãnh thổ của Việt Nam. Trong các năm 1979, 1981 và 1988, Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã 3 lần công bố Sách trắng về 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.

Rõ ràng, chúng ta có đầy đủ bằng chứng lịch sử và pháp lý khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việt Nam là nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền và là quốc gia duy nhất quản lý liên tục, có tính kế thừa và phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

2.2. Các tư liệu nước ngoài và Trung Quốc đều thừa nhận rõ việc xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa

Bên cạnh các tài liệu của Việt Nam, chủ quyền của Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa còn được đề cập trong các tài liệu nước ngoài. Nhiều nhà hàng hải, nhà nghiên cứu phương Tây đã từng đến Việt Nam xác nhận Bãi Cát Vàng, Hoàng Sa, Vạn Lý Trường Sa thuộc chủ quyền lãnh thổ Việt Nam.

Trong bản đồ Biển Đông (Sinensis Oceanus) của anh em Van Langren người Hà Lan in năm 1595 cũng như trong bản đồ “Indiae Orientalis” của nhà hàng hải Meccato in năm 1633, đã vẽ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thành một dải liền nhau, hình lá cờ đuôi nheo nằm trải dài ngoài khơi dọc theo bờ biển miền Trung Việt Nam, trong đó có rất nhiều chấm nhỏ biểu thị các hòn đảo, bãi cát với hàng chữ Isle de Pracel (quần đảo Pracel). Trong bản đồ này trên bờ biển ở khu vực Đà Nẵng hiện nay có ghi dòng chữ Costa de Pracel (bờ biển Pracel).

Trong một công trình của mình, nhà nghiên cứu M.G. Dumoutier đã đề cập đến một tập bản đồ Việt Nam vẽ vào cuối thế kỷ XV gồm 24 mảnh, trong đó có mảnh thứ 19 đã thể hiện rõ ràng ở ngoài khơi tỉnh Quảng Nghĩa (nay là tỉnh Quảng Ngãi) có một bãi cát trải dài 500 – 600 hải lý mang tên Bãi Cát Vàng.

Trong số tài liệu lịch sử của nhiều tác giả nước ngoài, một tài liệu giữ ở kho lưu trữ của Pháp ngày 10/4/1768 mang tên là “Note sur l’Asedemandés pas M. de la bonde à M. d’ Etaing” cho biết hồi đó hải quân Việt Nam đã tuần tiễu đều đặn giữa bờ biển Việt Nam và quần đảo Hoàng Sa. Đô đốc d’Estaing đã tả hệ thống phòng thủ của Việt Nam có nhiều đại bác, phần lớn là mang huy hiệu của Bồ Đào Nha, có ghi năm 1661 và những khẩu nhỏ hơn mang hiệu xứ Campuchia và dấu khắc tên “Anh Quốc Ấn Độ công ty” (Brifish company of India). Những khẩu pháo nhỏ này đã được thu lượm ở Hoàng Sa. Ngoài ra còn có các tác giả Le Poivre (1740), J Chaigneau (1816, 1819), Taberd (1833), Gutzlagip (1840)… cũng từng khẳng định Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Ngay cả các tác giả người Trung Quốc trước đây cũng từng viết sách nói rằng Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Nhà sư Thích Đại Sán trong cuốn Hải ngoại ký sự viết năm 1696 đã xác nhận các chúa Nguyễn hàng năm cho thuyền khai thác các sản vật từ các tàu bị đắm ở vùng Vạn lý Trường Sa (tức Hoàng Sa của Việt Nam). Tập tài liệu của Trung Quốc “Ngã quốc Nam Hải chư đảo sử liệu hội biên” do Hàn Chấn Hoa chủ biên, trang 115 thiên thứ nhất, cũng ghi chép dấu vết trên đảo Vinh Hưng (Phú Lâm) ở Hoàng Sa có miếu gọi là Hoàng Sa tự. (Hoàng Sa tự được vua Minh Mạng triều Nguyễn cho xây dựng). Trong cuốn Hoàng Thanh nhất thống dư địa toàn đồ, bản đồ Trung Quốc đời Thanh, xuất bản năm 1894 ghi chú rõ: “Điểm cực Nam lãnh thổ Trung Quốc là Nhai Châu, Quảng Đông, độ Bắc cực 18o13”. Còn quyển Quảng Đông dư địa toàn đồ, bản đồ tỉnh Quảng Đông, xuất bản năm 1897 cũng ghi: “Điểm cực Nam tỉnh này là mỏm núi bên ngoài cảng Du Lâm 18o09’10″”. Trong Đại Thanh đế quốc, bản đồ toàn Trung Quốc trong tập bản đồ mang tên “Đại Thanh đế quốc toàn đồ”, xuất bản năm 1905, tái bản lần thứ tư năm 1910, cũng chỉ rõ phần cực Nam lãnh thổ Trung Quốc là đảo Hải Nam. Những bản đồ trên đây đều khẳng định cho đến thế kỷ XX, lãnh thổ Trung Quốc không bao giờ gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Trong sách “Hải lục” của Trung Quốc viết năm 1842 cũng nhận xét: “Vạn lý Trường Sa gồm những bãi cát nổi trên biển dài mấy ngàn dặm, làm phên dậu bên ngoài của nước An Nam”.

Đáng chú ý có thể kể đến An Nam đại quốc họa đồ của giám mục Taberd xuất bản năm 1838 đã khẳng định Bãi Cát Vàng là Paracels và nằm trong lãnh hải Việt Nam. Bản đồ này là một tài liệu phản ánh sự tổng kết những hiểu biết sâu sắc và chính đáng của người phương Tây từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX về mối quan hệ giữa quần đảo Hoàng Sa và nước Đại Việt mà tác giả gọi là An Nam đại quốc.

Như vậy, khi phân tích các dữ liệu Việt Nam và các tư liệu nước ngoài cũng như của Trung Quốc, chúng ta thấy rõ hầu hết các tư liệu Việt Nam đưa ra đều là tư liệu chính thức của Nhà nước, xác minh rõ việc xác lập và thực thi chủ quyền Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

3. Những điều cần biết về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa

3.1. Quần đảo Hoàng Sa

Quần đảo Hoàng Sa gồm trên 30 đảo, đá, cồn san hô và bãi cạn, nằm ở khu vực biển giữa vĩ độ 1504500”N – 1701500”N và kinh độ 111000’00”E – 113000’00”E trên vùng biển có diện tích 30.000 km2, cách đảo Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi) khoảng 120 hải lý, cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) khoảng 140 hải lý. Diện tích toàn bộ phần đất nổi của quần đảo khoảng 8km2. Quần đảo Hoàng Sa chia thành hai nhóm An Vĩnh (còn gọi là nhóm Đông – Bắc) và Trăng Khuyết (còn gọi là nhóm Tây).

– Nhóm An Vĩnh: nguyên là tên của một xã thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Theo sách Đại Nam Thực lục Tiền biên quyển 10 ghi chép về xã này như sau: “Ngoài biển xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi có hơn 100 cồn cát… chiều dài kéo dài không biết tới mấy ngàn dặm, tục gọi là Vạn Lý Hoàng Sa châu. Hồi quốc sơ đầu triều Nguyễn đặt đội Hoàng Sa gồm 70 người lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hàng năm cứ đến tháng 3 cưỡi thuyền ra đảo, 3 đêm thì tới nơi…”. Nhóm đảo An Vĩnh bao gồm các đảo tương đối lớn, Đảo Phú Lâm, Đảo Cây, Đảo Linh Côn và các bãi ngầm chính, trong đó đảo lớn nhất là đảo Phú Lâm (khoảng 2,3km2).

– Nhóm Trăng Khuyết (hay còn gọi là nhóm Lưỡi Liềm): có hình cánh cung hay lưỡi liềm gồm có các đảo Hoàng Sa, Hữu Nhật, Duy Mộng, Quang Ảnh, Quang Hòa, Bạch Quỷ, Tri Tôn và các bãi ngầm, trong đó có đảo Hoàng Sa dài 950m, rộng khoảng 650m, diện tích 0,32km2. Về yếu tố quân sự, đảo Hoàng Sa là đảo chính của quần đảo nhưng không phải là đảo lớn nhất. Nhiều nhà quân sự cho rằng đảo này có vị trí quan trọng nhất, hơn cả đảo Phú Lâm trong việc phòng thủ bờ biển Việt Nam. Trong thời gian chính quyền Việt Nam Cộng hòa quản lý, ở đảo này có nhà cửa, căn cứ quân sự, đài khí tượng, hải đăng, miễu Bà, cầu tàu và bia chủ quyền. Bia chủ quyền do người Pháp dựng lên năm 1938, ghi nhận lại chủ quyền chính thức của Việt Nam từ năm 1816. Cơ sở quân sự được thiết lập từ đầu thập niên 1930. Sang thập niên 1950, 1960, nhà cửa được xây cất thêm, tạm đủ cho sự trú phòng của một tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến. Bia chủ quyền Việt Nam được đặt gần giữa đảo. Nhà Nguyễn đã chính thức đặt chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa năm 1816.

Quần đảo Hoàng Sa tuy chỉ gồm một số đảo nhỏ giữa Biển Đông, có một thời không được các nước trong khu vực chú ý, không có cư dân sinh sống thường xuyên, chỉ có người Việt Nam ra khai thác theo mùa các tài nguyên như phân chim, tổ yến, san hô, đánh cá trong hàng thế kỷ. Nhưng cùng với sự tiến bộ của khoa học và kỹ thuật, sự xuất hiện các khái niệm về chủ quyền, lãnh hải, sự ra đời của luật biển, khả năng khai thác tài nguyên biển, nhất là dầu khí… thì các quốc gia có tiềm lực và tầm nhìn xa bắt đầu nhòm ngó quần đảo này như một cơ sở khí tượng thủy văn; quan trọng hơn là một cơ sở hậu cần và là căn cứ quân sự chiến lược có khả năng khống chế Biển Đông, đường giao thông trên biển và cả trên không trong khu vực, một cơ sở pháp luật để bành trướng chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải trên phần lớn Biển Đông nhằm khai thác các tài nguyên biển, nhất là dầu lửa và khí đốt.

3.2. Quần đảo Trường Sa

Quần đảo Trường Sa nằm giữa Biển Đông về phía Đông Nam nước ta, phía Bắc là quần đảo Hoàng Sa, phía Đông giáp biển Philippin, phía Nam giáp biển Malaixia, Brunây và Inđônêxia. Từ trung tâm quần đảo Trường Sa đến biển của Malaixia khoảng 250 hải lý, đến biển của Philippin khoảng 210 hải lý, đến biển của Brunây khoảng 320 hải lý, đến đảo Hải Nam khoảng 585 hải lý và đến đảo Đài Loan khoảng 810 hải lý; cách Cam Ranh khoảng 243 hải lý, cách Vũng Tàu 440 hải lý. Quần đảo Trường Sa gồm trên 100 hòn đảo nhỏ và bãi san hô với diện tích vùng biển rộng khoảng 410.000 km2 nằm ở giữa vĩ độ 6030 đến 120 Bắc và kinh độ 111030đến 117020Đông. Diện tích toàn bộ phần đất nổi của quần đảo khoảng 3km2, được chia làm 8 cụm (Song Tử, Loại Ta, Thị Tứ, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa, Thám Hiểm, Bình Nguyên), đảo cao nhất là Song Tử Tây (khoảng 4 – 6m), đảo lớn nhất là đảo Ba Bình (0,44 km2), sau đó là đảo Nam Yết (0,06 km2). Khoảng cách giữa các đảo cũng khác nhau, gần nhất từ đảo Song Tử Đông đến Song Tử Tây khoảng 1,5 hải lý, xa nhất Song Tử Tây (phía Bắc) đến An Bang (phía Nam) khoảng 280 hải lý. Việt Nam thực hiện chủ quyền và đóng giữ 21 đảo, gồm 9 đảo nổi và 12 đảo đá ngầm với 33 điểm đóng quân (9 đảo nổi: Đảo Trường Sa, Trường Sa Đông, An Bang, Sinh Tồn Đông, Phan Vinh, Song Tử Tây, Nam Yết, Sinh Tồn, Sơn Ca; 12 đảo đá ngầm: Đá Nam, Đá Lớn, Đá Lát, Đá Đông, Đá Tây, Đá Thị, Thuyền Chài, Cô Lin, Len Đao, Tiên Nữ, Núi Le, Tốc Tan) và không ngừng củng cố và phát triển cơ sở vật chất và đời sống kinh tế – xã hội nhằm từng bước xây dựng huyện đảo Trường Sa trở thành đơn vị hành chính ngang tầm với vị trí và vai trò của nó trong hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những năm gần đây, đời sống vật chất và tinh thần của huyện đảo được nâng lên rõ rệt.

Quần đảo Trường Sa án ngữ đường hàng hải quốc tế nối liền Thái Bình Dương với Ấn Độ Đương và Đại Tây Dương, giữa Châu Âu, Châu Phi, Trung Cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản với các nước Đông Nam Á và Đông Bắc Á, một tuyến đường huyết mạch có lưu lượng tàu thuyền tấp nập vào hàng thứ 2 trên thế giới (chỉ sau Địa Trung Hải). Trung bình mỗi ngày có từ 250 đến 300 tàu biển các loại đi qua Biển Đông, trong đó có 15 đến 20% tàu lớn trọng tải trên 30.000 tấn. Hiện nay trên các đảo và bãi san hô đã có một số công trình kiên cố và nhà ở, một số đảo đã có đèn biển, có luồng vào, trên luồng có thiết bị phao dẫn luồng và phao buộc tàu tạo thuận lợi cho tàu thuyền tránh giông bão. Tuy nhiên, việc điều động tàu vẫn rất khó khăn vì luồng hẹp, độ sâu hay thay đổi nên tàu thuyền ra vào phải nhằm thời tiết tốt và vào ban ngày.

Trên thềm san hô quần đảo Trường Sa có nhiều loại hải sản quý như: hải sâm, rùa biển, cá ngừ, tôm hùm, rong biển và các loại ốc có giá trị dinh dưỡng cao, nếu được khai thác, chế biến tốt sẽ mang lại thu nhập lớn cho nhân dân và và làm hàng hóa xuất khẩu thu lợi nhuận cao cho Nhà nước. Với vị trí ở giữa Biển Đông, quần đảo Trường Sa có thế mạnh về dịch vụ hàng hải, nghề cá đối với tàu thuyền đi lại và đánh bắt hải sản trong khu vực. Đồng thời là địa điểm du lịch hấp dẫn trong và ngoài nước. Trong một vài thập kỷ tới, tốc độ phát triển kinh tế cao của các nước trong khu vực (dự báo khoảng 7%/năm), khối lượng hàng hóa vận chuyển qua Biển Đông sẽ tăng gấp hai, ba lần hiện nay, khi đó Biển Đông nói chung, vùng biển thuộc quần đảo Trường Sa nói riêng có vai trò lớn trong thương mại quốc tế. Đặc biệt ngay sau khi xây dựng xong kênh KRA (ở Thái Lan) sẽ thu hút thêm một lượng tàu biển quốc tế lớn đi qua đây, tạo cơ hội cho chúng ta chia sẻ thị phần vận tải quốc tế, khi đó vùng biển Việt Nam và quần đảo Trường Sa sẽ trở thành chiếc “cầu nối” cực kỳ quan trọng để phát triển thương mại quốc tế và mở rộng giao lưu với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Sự liên kết giữa các đảo, cụm đảo, tuyến đảo của quần đảo Trường Sa tạo thành lá chắn quan trọng phía trước vùng biển và dải bờ biển Nam Trung Bộ và Nam Bộ, bảo vệ sườn phía Đông của đất nước, tạo thành một hệ thống cứ điểm tiền tiêu để ngăn chặn và đẩy lùi các hoạt động lấn chiếm của tàu thuyền nước ngoài. Vì thế từ lâu quần đảo Trường Sa luôn được các nhà quân sự, khoa học, chính trị đánh giá cao. Sau khi xâm lược nước ta và đánh giá cao vị trí chiến lược của quần đảo Trường Sa, người Pháp đã tổ chức khảo sát, đo đạc, biên vẽ bản đồ vùng Biển Đông trong đó có quần đảo Trường Sa. Trước khi tiến hành chiến tranh ở Thái Bình Dương, Nhật Bản đã chiếm quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa làm bàn đạp đánh chiếm Đông Dương, Xingapo, Inđônêxia. Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, Mỹ can thiệp, đưa quân vào miền Nam Việt Nam đã ủng hộ và tạo điều kiện cho chính quyền ngụy Sài Gòn đóng giữ đảo Trường Sa, ép chính phủ Philippin cho Mỹ lập căn cứ hải quân và không quân trên lãnh thổ Philippin để khống chế lực lượng quân sự của các nước trong khu vực và đường hàng hải quốc tế qua Biển Đông. Bàn về Biển Đông, nhiều nhà quân sự thế giới cho rằng ai làm chủ Trường Sa sẽ làm chủ Biển Đông.

II. Thành tựu phát triển kinh tế, văn hóa và bảo vệ quốc phòng, an ninh biển đảo của tỉnh Khánh Hòa

1. Điều kiện tự nhiên và tiềm năng vùng biển đảo tỉnh Khánh Hòa

Khánh Hòa là tỉnh ven biển Nam Trung Bộ, diện tích 5.197 km2. Biển Khánh Hòa có chiều dài tính theo mép nước khoảng 385 km; có gần 200 đảo lớn, nhỏ gần bờ và trên 100 đảo, bãi đá ngầm thuộc quần đảo Trường Sa. Đặc biệt có 3 vịnh nổi tiếng là vịnh Vân Phong, vịnh Nha Trang và vịnh Cam Ranh. Dân số hơn một triệu người; có 9 đơn vị hành chính gồm thành phố Nha Trang, thành phố Cam Ranh, thị xã Ninh Hòa, các huyện: Vạn Ninh, Diên Khánh, Cam Lâm, Khánh Vĩnh, Khánh Sơn và Trường Sa. Trong đó có 6/9 đơn vị hành chính với 48/138 xã, phường tiếp giáp biển.

Khánh Hòa là một trong những tỉnh có lợi thế về tài nguyên biển, là một trung tâm kinh tế – văn hóa của khu vực Nam Trung bộ, đồng thời là trung tâm du lịch lớn của cả nước. Khánh Hòa có các đảo ven bờ và nhiều đầm, vịnh thuận lợi cho nghề cá ven bờ, phát triển du lịch và giao thông đường thủy. Khánh Hòa lại là vùng đất nằm nhô ra xa nhất về phía Đông ở nước ta, gần đường hàng hải quốc tế, thuận lợi cho vận tải tàu biển và dịch vụ đường thủy. Biển Khánh Hòa có nguồn tài nguyên phong phú, với nhiều loại hải, đặc sản quý hiếm, trong đó, yến sào là sản vật có giá trị xuất khẩu cao, được coi là “vàng trắng” ở nước ta. Tuy nằm trong khu vực duyên hải Nam Trung bộ, chịu ảnh hưởng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhưng khí hậu ở Khánh Hòa rất ôn hòa, quanh năm nắng ấm, mát mẻ, ít bị ảnh hưởng gió bão, là điều kiện lý tưởng cho du lịch, nghỉ dưỡng, phục hồi sức khỏe…

Khánh Hòa có Viện Nghiên cứu biển Nha Trang, Trường Đại học Nha Trang, Viện Nghiên cứu thủy sản III là những trung tâm khoa học, tập trung nhiều nhà khoa học về biển của cả nước.

Đối với huyện đảo Trường Sa: Thời kỳ phong kiến và thuộc địa của Pháp, Trường Sa thuộc tỉnh Bà Rịa. Đến thời chính quyền Sài Gòn, Trường Sa thuộc tỉnh Phước Tuy. Sau khi thống nhất đất nước, huyện Trường Sa thuộc tỉnh Đồng Nai. Ngày 28/12/1982, Nghị quyết của Quốc hội (khóa VII), sát nhập huyện Trường Sa vào tỉnh Phú Khánh. Ngày 01/7/1989, tỉnh Phú Khánh tách ra thành tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, huyện đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Khánh Hòa. Ngày 11 tháng 4 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 65/2007/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính, thành lập huyện Cam Lâm; điều chỉnh địa giới hành chính để thành lập xã, thị trấn thuộc các huyện Cam Lâm, Trường Sa… Trong đó thành lập thị trấn Trường Sa thuộc huyện Trường Sa trên cơ sở đảo Trường Sa lớn và các đảo, đá, bãi phụ cận; thành lập xã Song Tử Tây thuộc huyện Trường Sa trên cơ sở đảo Song Tử Tây và các đảo, đá, bãi phụ cận; thành lập xã Sinh Tồn thuộc huyện Trường Sa trên cơ sở đảo Sinh Tồn và các đảo, đá, bãi phụ cận.

2. Chủ trương phát triển kinh tế biển và một số kết quả phát triển kinh tế – xã hội vùng biển, đảo của tỉnh Khánh Hòa

Nhận thức tầm quan trọng và lợi thế của địa phương về phát triển kinh tế biển, trong các nhiệm kỳ đại hội Đảng bộ tỉnh đã xây dựng và triển khai thực hiện nhiều nghị quyết, chương trình về phát triển kinh tế biển. Đặc biệt, tháng 4/2007, Tỉnh ủy đã xây dựng và ban hành Chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 trên địa bàn tỉnh với mục tiêu: Xây dựng và phát triển toàn diện các lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học – công nghệ, bảo vệ môi trường, tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh. Phấn đấu đến năm 2020 đưa Khánh Hòa trở thành tỉnh mạnh về kinh tế biển bảo đảm vững chắc chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng đất nước giàu mạnh.

Quán triệt và thực hiện tinh thần đó, những năm qua Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh đã tập trung nhiều nguồn lực khai thác và phát huy hiệu quả những tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế biển, nhất là các lĩnh vực dịch vụ hàng hải, du lịch biển, đảo với cơ cấu ngành, nghề phong phú, từng bước hiện đại. Tỉnh đã chú trọng rà soát, bổ sung quy hoạch xây dựng hệ thống cảng biển, các cơ sở đóng tàu, hệ thống vận tải biển, phát triển kinh tế thủy sản. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế – xã hội với bảo đảm quốc phòng – an ninh và bảo vệ môi trường; tăng cường hợp tác quốc tế, vừa phát triển kinh tế, vừa bảo vệ chủ quyền quốc gia. Phát triển kinh tế trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trên địa bàn tỉnh thuộc chủ quyền và quyền tài phán của nước ta, đồng thời từng bước khai thác tài nguyên biển ở hải phận quốc tế. Xây dựng các trung tâm kinh tế, khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất lớn ở vùng duyên hải gắn với các hoạt động kinh tế biển làm động lực quan trọng đối với sự phát triển đất nước. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển vùng biển, hải đảo với phát triển vùng nội địa.

Chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh ngày càng được định hình rõ nét, tạo nền tảng cho giai đoạn mới. Từng bước đầu tư kết cấu hạ tầng thiết yếu cho 3 vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh; các công trình dân dụng, công nghiệp có quy mô lớn, kỹ thuật phức tạp và chất lượng cao đang được xúc tiến triển khai. Không chỉ phát huy nội lực, những năm qua Khánh Hòa còn gắn kết với các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên cùng phát triển kinh tế biển. Trong đó, chú trọng đầu tư các dự án phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội kết nối với các địa phương lân cận vừa thể hiện vai trò trung tâm trong khu vực, vừa góp phần tạo nên diện mạo mới về kết cấu hạ tầng cho địa phương. Hệ thống đường giao thông ven biển của tỉnh về cơ bản được hình thành và kết nối từ Bắc xuống Nam, trong đó đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng đường Phạm Văn Đồng nối thành phố Nha Trang với quốc lộ 1A và đại lộ Nguyễn Tất Thành nối thành phố Nha Trang với huyện Cam Lâm và thành phố Cam Ranh. Các trục đường ven biển được kết nối gần hoàn chỉnh giữa thị xã Ninh Hòa và huyện Vạn Ninh.

Khu kinh tế Vân Phong đã thu hút được nhiều dự án đầu tư trong và ngoài nước, kết hợp kinh tế đa ngành, đa lĩnh vực với trọng tâm phát triển công nghiệp, du lịch, dịch vụ, nuôi trồng thủy sản. Việc đầu tư và phát triển Khu kinh tế Vân Phong có vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế biển của tỉnh cũng như khu vực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Hiện nay, Bộ Chính trị đồng ý chủ trương xây dựng, phát triển tỉnh Khánh Hòa trở thành đô thị trực thuộc Trung ương và xây dựng đặc khu kinh tế – hành chính Bắc Vân Phong.

Cảng hàng không quốc tế Cam Ranh được hình thành và đi vào hoạt động, tạo cơ hội thuận lợi cho việc thu hút trực tiếp du khách quốc tế không chỉ đến với Khánh Hòa mà cho cả Ninh Thuận, các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, tạo mối liên kết hợp tác phát triển trong lĩnh vực du lịch; Cảng hàng hóa Ba Ngòi đang được đầu tư và nâng cấp để đón tàu có trọng tải lớn, không chỉ phục vụ nhu cầu kinh tế – xã hội của tỉnh, khu vực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên mà còn góp phần bổ sung năng lực vận tải biển cho cả nước.

Thành phố Nha Trang với mục tiêu xây dựng thành trung tâm du lịch lớn của cả nước và là trung tâm tổ chức các sự kiện có ý nghĩa của quốc gia và quốc tế; là trung tâm kinh tế, khoa học kỹ thuật và giáo dục đào tạo của vùng Duyên hải Nam Trung bộ. Nơi đây đã diễn ra các hội nghị chuyên đề của quốc gia và quốc tế; tổ chức thành công nhiều cuộc thi hoa hậu Việt Nam, thế giới và Festival Biển… Khai thác và đưa vào sử dụng các khu du lịch nổi tiếng trong nước và thế giới. Nhiều dự án mở rộng cơ sở hạ tầng và đô thị về phía Tây đang được triển khai thực hiện mạnh mẽ.

Với những nỗ lực đó, kinh tế biển nói riêng, kinh tế – xã hội của tỉnh nói chung phát triển khá. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của địa phương đạt tương đối cao và ổn định trong nhiều năm. Khánh Hòa là một trong các tỉnh thành có số thu ngân sách lớn nhất cả nước, đóng góp đáng kể cho ngân sách Trung ương. Trong cơ cấu kinh tế, lĩnh vực du lịch – dịch vụ chiếm tỷ lệ cao (43,5%). Phát huy những kết quả đạt được, những năm tới tỉnh huy động tối đa nội lực khai thác tiềm năng, lợi thế biển đảo trên địa bàn một cách đồng bộ, hiệu quả và bền vững. Phấn đấu khai thác tiềm lực kinh tế biển một cách đồng bộ, hiệu quả và bền vững, đưa kinh tế biển và ven biển chiếm tỷ lệ cao trong GDP toàn tỉnh; giữ vững ổn định chính trị, chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia trên biển đảo; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện đời sống nhân dân vùng biển, ven biển nói riêng, nhân dân cả tỉnh nói chung.

 

Phần thứ hai

QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA

     VỀ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO VÀ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ

TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG

 

Ngày 12/5/1977, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cùng các nước liên quan, thông qua thương lượng trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế, giải quyết các vấn đề về các vùng biển và thềm lục địa của mỗi bên.

Ngày 23/6/1994, tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khóa IX) đã thông qua Nghị quyết về việc phê chuẩn Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982, trong đó có những điểm chính:

Bằng việc phê chuẩn Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam biểu thị quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển.

Quốc hội một lần nữa khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và chủ trương giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ cũng như các bất đồng khác liên quan đến biển Đông thông qua thương lượng hòa bình trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng pháp luật quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982, tôn trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; trong khi nỗ lực thúc đẩy đàm phán để tìm giải pháp cơ bản và lâu dài, các bên liên quan cần duy trì ổn định trên cơ sở giữ nguyên trạng không có hành động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực. Quốc hội nhấn mạnh cần phân biệt vấn đề giải quyết tranh chấp về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với vấn đề bảo vệ các vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam căn cứ vào những nguyên tắc và những tiêu chuẩn của Công ước Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982.

Ngày 21/6/2012, Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Biển Việt Nam gồm 7 chương, 55 điều. Điều 1, chương I của Luật nêu rõ phạm vi điều chỉnh của Luật: Luật này quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam; hoạt động trong vùng biển của Việt Nam; phát triển kinh tế biển; quản lý và bảo vệ biển, đảo.

Lập trường của Việt Nam là chiếm hữu thật sự 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ít nhất từ thế kỷ thứ XVII khi nó chưa thuộc chủ quyền bất kỳ quốc gia nào và Nhà nước Việt Nam đã thực hiện chủ quyền của mình một cách liên tục và hòa bình cho đến khi bị nước ngoài dùng vũ lực xâm chiếm.

Trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực hiện nay, việc quán triệt và tổ chức thực hiện tốt chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về giữ gìn hòa bình để phát triển kinh tế, đưa đất nước ra khỏi trình trạng kém phát triển, cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, đồng thời bảo đảm an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Liên tục trong nhiều năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã cố gắng, triển khai một khối lượng lớn công việc nhằm tạo dựng và duy trì môi trường hòa bình, ổn định, phát triển kinh tế đất nước, bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển. Đối với các vùng biển thực sự có chồng lấn giữa nước ta và các nước, các bên liên quan có thể bàn bạc, trao đổi để hợp tác cùng phát triển.

Cùng với việc giải quyết một cách căn bản các tranh chấp về biên giới lãnh thổ trên bộ, tiến tới xây dựng đường biên giới trên bộ hòa bình, hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng Trung Quốc, Lào, Campuchia, Việt Nam đã đàm phán đi đến ký Hiệp định về Vùng nước lịch sử với Campuchia (1982); thỏa thuận khai thác chung với Malaixia (1992); Hiệp định phân ranh giới biển với Thái Lan (1997); Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ và Hiệp định Hợp tác nghề cá với Trung Quốc (2000); Hiệp định phân định thềm lục địa với Inđônêxia (2003). Việt Nam đang đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc; phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa với Malaixia; phân định vùng đặc quyền kinh tế với Inđônêxia; phân định vùng biển với Campuchia; phân định vùng chồng lấn thềm lục địa ba nước Việt Nam, Thái Lan, Malaixia; phân định vùng chồng lấn thềm lục địa với Brunây. Việt Nam cũng đang kiên trì đàm phán để bảo vệ Vùng thông báo bay (FIR – vùng trời); xác định vùng trách nhiệm tiếp nhận thông tin cứu nạn hàng hải (VNMCC); vùng tìm kiếm cứu nạn (theo quy định của Công ước SAR 79 – vùng biển); xác định ranh giới thềm lục địa vượt quá 200 hải lý theo yêu cầu của Liên Hợp quốc. Năm 2005, cơ quan dầu khí quốc gia ba nước Việt Nam, Trung Quốc, Philippin đã ký kết và triển khai thỏa thuận thăm dò địa chấn biển chung tại khu vực thỏa thuận trên Biển Đông; cuối năm 2008, chúng ta hoàn thành công tác phân giới, cắm mốc trên đất liền giữa Việt Nam – Trung Quốc. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, hai nước đã xác định đường biên giới rõ ràng trên đất liền với hệ thống cột mốc hiện đại, mở ra một trang mới trong lịch sử quan hệ giữa Việt Nam – Trung Quốc. Ngoài ra, chúng ta thực hiện các cơ chế đối thoại và hợp tác về chính trị – an ninh khu vực, nhất là Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) tiếp tục hoạt động mạnh mẽ và được bổ sung với việc lập một số cơ chế mới như Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng với các đối tác quan trọng (ADMM +), Hội nghị những người đứng đầu các cơ quan an ninh ASEAN (MACOSA) và Diễn đàn Biển ASEAN (AMF)…,

Để hạn chế các vụ việc vi phạm pháp luật trên biển, cùng với công tác tuyên truyền sâu rộng cho ngư dân ta về các thỏa thuận quốc tế hữu quan, Hải quân ta còn tiến hành các chuyến tuần tra chung trên biển với Hải quân Thái Lan (đã tiến hành trên 21 chuyến), với Hải quân Campuchia (đã tiến hành trên 19 chuyến) và trong Vịnh Bắc Bộ với Hải quân Trung Quốc (đã tiến hành được 10 chuyến). Lập kênh thông tin đường dây nóng giữa Tư lệnh Hải quân Việt Nam với Tư lệnh Hải quân một số nước trong khu vực, qua đó đã góp phần giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề nảy sinh trên biển. Ngoài ra, chúng ta cũng tham gia tích cực việc triển khai Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) được các nước thành viên ASEAN và Trung Quốc ký ngày 4/11/2002; tham gia Hội thảo khống chế xung đột tiềm tàng ở Biển Đông do Inđônêxia chủ trì; hợp tác với Philippin triển khai dự án hợp tác nghiên cứu khoa học biển Việt Nam – Philippin, JOMSRE…

Những thỏa thuận và việc làm tích cực liên quan đến Biển Đông nói trên có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc tăng cường, hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, thu hẹp bất đồng, tạo không khí thuận lợi cho việc thúc đẩy đàm phán tìm kiếm giải pháp hòa bình, cơ bản, lâu dài cho vấn đề Biển Đông.

Tuy nhiên, từ đầu năm 2007 đến nay, tình hình Biển Đông diễn biến theo chiều hướng phức tạp, Trung Quốc liên tiếp có các hoạt động vi phạm chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông.

Trung Quốc đã phản đối, tìm cách ngăn cản các công ty dầu khí nước ngoài đang hợp tác thăm dò, khai thác dầu khí trên thềm lục địa Việt Nam với nhiều phương thức khác nhau, vừa lôi kéo vừa gia tăng sức ép, phản đối ngoại giao, buộc các nước, các đối tác phải dừng, phải hủy bỏ các hợp đồng nghiên cứu, khai thác dầu khí với Việt Nam, kể cả việc sử dụng tàu và máy bay có vũ trang cản trở hoạt động của ta trên biển. Chúng ta đã kiên trì giao thiệp và đấu tranh qua đường ngoại giao cũng như trên thực địa, kiên quyết phản đối những đòi hỏi vô lý của phía Trung Quốc. Đến nay, hầu hết các đối tác dầu khí nước ngoài tiếp tục hoạt động bình thường trên thềm lục địa Việt Nam.

Cũng trong lĩnh vực dầu khí, Việt Nam đã kiên quyết, đấu tranh phản đối phía Trung Quốc tiến hành các hoạt động tìm kiếm, thăm dò tài nguyên trên thềm lục địa Việt Nam ở khu vực quần đảo Hoàng Sa. Ta đã kết hợp chặt chẽ trên mặt trận ngoại giao với việc ngăn cản quyết liệt trên biển, buộc phía Trung Quốc phải dừng các hoạt động bất hợp pháp này. Phía ta cũng có nhiều biện pháp bảo vệ hoạt động bình thường của ngư dân ta trên biển, kiên quyết phản đối và bồi thường đối với các hoạt động xâm hại đến tính mạng và phương tiện của ngư dân ta. Đặc biệt, Trung Quốc tổ chức bắt, phạt tàu đánh cá của ngư dân ta đang hành nghề hợp pháp trên các vùng biển của ta; một số vụ bắt khi ngư dân ta đánh bắt ở vùng biển Hoàng Sa, bắt người nhà lên biên giới nộp tiền mới thả tàu; phạt lần sau cao hơn lần trước; thậm chí còn đuổi bắt và bắn vào tàu cá của ta. Mục đích cuối cùng là để cho ngư dân ta không dám ra làm ăn trên vùng biển này, đây là hành động có sự tính toán của họ nhằm khẳng định chủ quyền. Gần đây Trung Quốc phá hoại, cản trở các hoạt động thăm dò khảo sát bình thường của Việt Nam trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, gây thiệt hại lớn cho Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam.

Trước tình hình phức tạp diễn ra ở Biển Đông, Đảng và Nhà nước ta đã thể hiện rất rõ quan điểm:

Việt Nam đã tuyên bố và khẳng định rất rõ ràng lập trường của mình: tranh chấp về chủ quyền ở Biển Đông phải được giải quyết bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Luật Biển 1982.

Giữa Trung Quốc và ASEAN đã ký thỏa thuận về DOC. Hai bên cũng đã thỏa thuận việc xây dựng bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông COC, nâng những nguyên tắc đó lên cao hơn, có tính pháp lý ràng buộc. Tuy nhiên, chúng ta chủ trương tất cả những vấn đề đó phải được giải quyết hòa bình, hữu nghị, không dùng vũ lực, để Biển Đông thực sự hoà bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải.

Để giải quyết tháo gỡ vấn đề Biển Đông phải tuân thủ nguyên tắc luật pháp quốc tế và thực hiện theo phương châm hòa bình, hữu nghị giữa các bên liên quan. Những nguyên tắc này, không chỉ Trung Quốc và ASEAN công nhận, mà cộng đồng quốc tế, nhất là những nước quan tâm và có lợi ích ở Biển Đông, cũng thừa nhận và ủng hộ. Việt Nam luôn khẳng định nguyên tắc này trên các diễn đàn, hội thảo…

Trong thời gian tới, chúng ta cần tiếp tục theo dõi chặt chẽ diễn biến tình hình, kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển; đồng thời đẩy mạnh công tác đàm phán, phân định biển với các nước láng giềng; tăng cường hợp tác trên biển theo tinh thần Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), giữ gìn hòa bình và ổn định trên biển, cố gắng thu hẹp bất đồng, tìm kiếm giải pháp ổn định lâu dài mà các bên chấp nhận được. Đối với trong nước, chúng ta đẩy mạnh phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh – quốc phòng trên biển; tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao kiến thức về chủ quyền biển đảo quốc gia. Mặt khác, chúng ta cũng cần đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu của các thế lực cơ hội, cực đoan, thù địch lợi dụng vấn đề bất đồng về chủ quyền lãnh thổ để kích động, chia rẽ quan hệ giữa nước ta với các nước láng giềng; công kích, xuyên tạc chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta.

 

VỀ NỘI DUNG THỎA THUẬN

NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CHỈ ĐẠO GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

TRÊN BIỂN VIỆT NAM – TRUNG QUỐC

 

Trong chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (từ 11 – 15/10/2011), ta và Trung Quốc đã ký Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (gọi tắt là Thỏa thuận). Việc ký kết Thỏa thuận có ý nghĩa hết sức quan trọng nhất là trong bối cảnh tình hình Biển Đông đang diễn biến phức tạp. Thỏa thuận đã xác định được một số nguyên tắc cơ bản định hướng cho việc giải quyết vấn đề tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình. Nội dung của “Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc” như sau:

1. Lấy cục diện quan hệ hai nước làm trọng, xuất phát từ tầm cao chiến lược và toàn cục, dưới sự chỉ đạo của phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, kiên trì thông qua hiệp thương hữu nghị, xử lý và giải quyết thỏa đáng vấn đề trên biển, làm cho Biển Đông trở thành vùng biển hòa bình, hữu nghị, hợp tác, đóng góp vào việc phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Trung Quốc, góp phần duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực.

2. Trên tinh thần tôn trọng đầy đủ chứng cứ pháp lý và xem xét các yếu tố liên quan khác như lịch sử,… đồng thời chiếu cố đến quan ngại hợp lý của nhau, với thái độ xây dựng, cố gắng mở rộng nhận thức chung, thu hẹp bất đồng, không ngừng thúc đẩy tiến trình đàm phán. Căn cứ chế độ pháp lý và nguyên tắc được xác định bởi luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982, nỗ lực tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được cho các vấn đề tranh chấp trên Biển.

Nội dung về tìm kiếm giải pháp cơ bản lâu dài cho vấn đề Biển Đông nêu tại điều 2 của Thỏa thuận đã xác định căn cứ vào luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển 1982 mà cả Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên để giải quyết các vấn đề tranh chấp ở Biển Đông. Đây là một nội dung đặc biệt quan trọng vì nó sẽ là cơ sở pháp lý để hai bên đi vào trao đổi giải quyết vấn đề trên biển. Nếu hai bên tuân thủ nghiêm túc nguyên tắc này thì nhất định sẽ tìm ra được giải pháp công bằng hợp lý mà hai bên có thể chấp nhận được cho các vấn đề tranh chấp ở Biển Đông.

Trong điều 2 của Thỏa thuận cũng nêu rõ “cần tôn trọng đầy đủ các chứng cứ pháp lý” nghĩa là những bằng chứng, tài liệu mang tính pháp lý sẽ được lấy làm cơ sở chính để giải quyết các tranh chấp, còn các yếu tố khác như lịch sử, địa hình… sẽ được xem xét như một yếu tố bổ trợ trong quá trình giải quyết tranh chấp. Điều này hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế trong việc giải quyết các tranh chấp về biên giới lãnh thổ trên thế giới. Thực tiễn giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ cho thấy, yếu tố lịch sử cùng với các yếu tố liên quan khác như địa hình, quản lý trên thực tế chỉ được tính đến một khi các chứng cứ pháp lý chưa rõ ràng. Với nội dung này thì những văn bản pháp lý về chủ quyền của các nhà nước phong kiến Việt Nam như các Châu bản, Sắc chỉ… sẽ là những tài liệu hết sức quý giá khi giải quyết vấn đề quần đảo Hoàng Sa vì đây là những tài liệu thể hiện rõ sự quản lý của nhà nước ta đối với quần đảo Hoàng Sa. Yếu tố lịch sử ở đây không có nghĩa là nói về yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc vì trong lịch sử chưa bao giờ Trung Quốc có sự quản lý trên thực tế đối với “đường lưỡi bò”, hơn thế nữa “đường lưỡi bò” của Trung Quốc hoàn toàn không có cơ sở pháp lý và không nhận được sự ủng hộ của bất cứ nước nào.

3. Trong tiến trình đàm phán vấn đề trên biển, hai bên nghiêm chỉnh tuân thủ thỏa thuận và nhận thức chung mà Lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc và tinh thần của “Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC).

Đối với tranh chấp trên biển giữa Việt Nam – Trung Quốc, hai bên giải quyết thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị. Nếu tranh chấp liên quan đến các nước khác, thì sẽ hiệp thương với các bên tranh chấp khác.

Thỏa thuận nêu rõ “trong tiến trình đàm phán vấn đề trên biển, hai bên nghiêm chỉnh tuân thủ thỏa thuận và nhận thức chung mà Lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc và tinh thần của “Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC). Nội dung này có ý nghĩa quan trọng đối với việc duy trì hòa bình ổn định ở Biển Đông. DOC là văn kiện quan trọng được ký kết giữa ASEAN và Trung Quốc, trong đó đã đưa ra nhiều quy định (gồm: tôn trọng tự do hàng hải và tự do bay ở Biển Đông; kiềm chế các hoạt động có thể làm phức tạp thêm tranh chấp và ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định; cam kết tăng cường nỗ lực xây dựng lòng tin; có thể tìm kiếm và tiến hành các hoạt động hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trong khi tìm kiếm giải pháp toàn diện lâu dài cho vấn đề tranh chấp ở Biển Đông và quan trọng nhất là quy định về việc không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực ở Biển Đông) mà các liên quan cần nghiêm túc thực hiện để duy trì hòa bình ổn định ở Biển Đông. Vừa qua, ASEAN và Trung Quốc đã ký kết Quy tắc hướng dẫn thực hiện DOC. Do vậy, việc thực hiện nghiêm túc các nội dung DOC là trách nhiệm của mỗi bên tham gia ký kết.

Một nội dung hết sức quan trọng thể hiện rõ quan điểm nhất quán của Việt Nam về phương thức giải quyết vấn đề trên biển là cả song phương lẫn đa phương đã được ghi nhận trong Thỏa thuận là “đối với tranh chấp trên biển giữa Việt Nam – Trung Quốc, hai bên giải quyết thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị. Nếu tranh chấp liên quan đến các nước khác thì sẽ hiệp thương với các bên tranh chấp khác”. Điều này có nghĩa là Việt Nam – Trung Quốc chỉ có thể giải quyết các vấn đề tranh chấp giữa hai nước, như tranh chấp Hoàng Sa, cửa Vịnh Bắc Bộ, không thể giải quyết các tranh chấp liên quan đến các bên khác, như vấn đề Trường Sa. Đây cũng là lần đầu tiên Trung Quốc ký kết một văn bản chính thức trong đó nói rõ tranh chấp liên quan đến nhiều bên thì phải trao đổi ý kiến với các bên đó. Nội dung này của thỏa thuận đã mở ra khả năng về giải quyết đa phương tranh chấp ở Biển Đông. Điều này là phù hợp với quan điểm chung của các nước trong và ngoài khu vực, phù hợp với thực tế tranh chấp ở Biển Đông và phù hợp với xu thế giải quyết các tranh chấp liên quan đến nhiều bên trong quan hệ quốc tế hiện đại.

Vấn đề Biển Đông hết sức phức tạp liên quan đến lợi ích của nhiều nước, nhiều bên. Với nội dung này trong điều 3 của Thỏa thuận, chúng ta có thể hiểu rằng đối với việc giải quyết tranh chấp ở Biển Đông thì những vấn đề chỉ liên quan đến Việt Nam – Trung Quốc như vấn đề phân định vùng biển chồng lấn ở khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và vấn đề quần đảo Hoàng Sa sẽ được trao đổi giải quyết song phương giữa Việt Nam – Trung Quốc; vấn đề quần đảo Trường Sa sẽ phải bàn bạc giải quyết giữa các bên liên quan trong tranh chấp; vấn đề duy trì hòa bình ổn định, an ninh an toàn hàng hải ở Biển Đông cần phải trao đổi bàn bạc giữa tất cả các bên liên quan và có lợi ích trong vấn đề này.

4. Trong tiến trình tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho vấn đề trên biển, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, đối xử bình đẳng, cùng có lợi, tích cực bàn bạc thảo luận về những giải pháp mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của hai bên, bao gồm việc tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển theo những nguyên tắc đã nêu tại điều 2 của Thỏa thuận này. (“Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc”).

Với nội dung này, hai bên đã đưa ra khả năng về một giải pháp mang tính quá độ đối với các khu vực tranh chấp, bao gồm cả việc hợp tác cùng phát triển theo nguyên tắc đã nêu ở điều 2 của Thỏa thuận, nghĩa là căn cứ vào luật pháp quốc tế, Công ước Luật biển 1982. Giải pháp quá độ tạm thời, hợp tác cùng phát triển là phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế. Dàn xếp tạm thời về “hợp tác cùng phát triển” được khuyến nghị trong Điều 74 và Điều 83 của Công ước Liên Hợp quốc về Luật biển 1982. Theo đó, các quốc gia khi chưa tìm được giải pháp phân định thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế thì có thể thỏa thuận về các dàn xếp tạm thời mang tính thực tiễn; các dàn xếp tạm thời không làm phương hại đến kết quả phân định cuối cùng. Trên thế giới đã có nhiều thỏa thuận về các dàn xếp tạm thời “hợp tác cùng phát triển” dưới nhiều hình thức và trong các lĩnh vực khác nhau (nghề cá, dầu khí…). Ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương có: Hiệp định về khai thác chung Nhật Bản – Hàn Quốc năm 1974 ở khu vực biển chồng lấn giữa hai nước; Hiệp định về phát triển chung vùng biển chồng lấn ở Biển Đông Timor giữa Úc và Inđônêxia năm 1989. Năm 1992, Việt Nam cũng đã ký với Malaixia Thỏa thuận về khai thác chung dầu khí tại 01 khu vực biển chồng lấn giữa hai nước và đến nay đang được triển khai thuận lợi.

Với việc đưa nội dung này vào Thỏa thuận, chúng ta đã thể hiện rõ thái độ và tinh thần hợp tác nhằm duy trì hòa bình ổn định trên biển. Một điều cần nhấn mạnh trong nội dung này là điều 76 của Công ước Liên Hợp quốc về Luật biển 1982 cũng quy định rõ mỗi quốc gia ven biển có vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa tối thiểu là 200 hải lý tính từ đường cơ sở, thậm chí có thể mở rộng ra đến 350 hải lý. Như vậy, giải pháp quá độ tạm thời, hợp tác cùng phát triển theo Công ước Liên Hợp quốc về Luật biển 1982 là phải tôn trọng vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa tối thiểu của mỗi quốc gia ven biển. Do vậy, hợp tác cùng phát triển chỉ có thể được thực hiện ở những khu vực thực sự có tranh chấp ngoài thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam.

5. Giải quyết các vấn đề trên biển theo tinh thần tuần tự tiệm tiến, dễ trước khó sau. Vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này. Tích cực thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực ít nhạy cảm như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm, cứu hộ cứu nạn trên biển, phòng chống, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai. Nỗ lực tăng cường tin cậy lẫn nhau để tạo điều kiện cho việc giải quyết các vấn đề khó khăn hơn.

6. Hai bên tiến hành cuộc gặp định kỳ Trưởng đoàn đàm phán biên giới cấp Chính phủ một năm hai lần, luân phiên tổ chức, khi cần thiết có thể tiến hành các cuộc gặp bất thường. Hai bên nhất trí thiết lập cơ chế đường dây nóng trong khuôn khổ đoàn đại biểu cấp Chính phủ để kịp thời trao đổi và xử lý thỏa đáng vấn đề trên biển.

Nội dung Thỏa thuận đã bảo đảm được những nguyên tắc lớn trong quan điểm lập trường của Việt Nam là giải quyết tranh chấp ở Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế, Công ước Liên Hợp quốc về Luật biển 1982; thực hiện nghiêm túc DOC nhằm duy trì hòa bình ổn định ở Biển Đông; giải quyết tranh chấp ở Biển Đông cả song phương lẫn đa phương; hợp tác cùng phát triển phải phù hợp với luật pháp quốc tế, Công ước Liên Hợp quốc về Luật biển 1982, nghĩa là tôn trọng vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của các quốc gia ven biển.

Tóm lại, việc ký kết Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển đã tạo cơ sở pháp lý cho việc bàn bạc giải quyết các vấn đề tranh chấp ở Biển Đông. Tuy nhiên, đây mới chỉ là bước đầu tiên trong quá trình giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc. Tình hình Biển Đông sẽ còn diễn biến phức tạp, công việc tiếp theo sẽ còn hết sức khó khăn. Để có thể tìm kiếm một giải pháp quá độ tạm thời hay giải pháp lâu dài cho các vấn đề tranh chấp ở Biển Đông đòi hỏi nỗ lực và thiện chí của cả hai bên, nhất là cần thực hiện nghiêm túc những nguyên tắc đã được xác định trong Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển. Mặt khác, vấn đề Biển Đông là vấn đề nhạy cảm được cả cộng đồng quốc tế quan tâm, do vậy trong quá trình giải quyết các vấn đề cụ thể liên quan ở Biển Đông, cần thực hiện công khai hóa, minh bạch hóa. Việc đăng toàn văn Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển ngay sau khi ký kết là cách làm đúng đắn, cần tiếp tục được thực hiện trong thời gian tới./.