TÀI LIỆU SINH HOẠT CHI ĐOÀN THÁNG 02/2023

190

TÀI LIỆU TUYÊN TRUYỀN
KỶ NIỆM 93 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
(03/02/1930 – 03/02/2023)

  1. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI LÀ BƯỚC NGOẶT TO LỚN TRONG LỊCH SỬ CÁCH MẠNG VIỆT NAM
  2. Bối cảnh lịch sử ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam

1.1. Bối cảnh quốc tế

Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc. Các nước tư bản đế quốc thực hiện chính sách: Bên trong tăng cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài gia tăng các hoạt động xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm đời sống nhân dân lao động trên thế giới trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa. Năm 1917, với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, chủ nghĩa Mác – Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người; là ánh sáng soi đường cho các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) ra đời đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

1.2. Bối cảnh trong nước

– Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và từng bước thiết lập bộ máy thống trị, biến nước ta từ một quốc gia phong kiến thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”. Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi.

Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội, đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn, đó là một chính sách chuyên chế điển hình, chúng đàn áp đẫm máu các phong trào và hành động yêu nước của người Việt Nam, mọi quyền tự do bị cấm. Chúng chia rẽ ba nước Đông Dương, chia Việt Nam thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng.

Về kinh tế, thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để thực hiện chính sách bóc lột tàn bạo, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; ra sức vơ vét tài nguyên, cùng nhiều hình thức thuế khóa nặng nề, vô lý; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa. Về văn hóa, thực dân Pháp tiến hành chính sách ngu dân, chúng bưng bít, ngăn cản ảnh hưởng của văn hóa tiến bộ trên thế giới, khuyến khích văn hóa độc hại, xuyên tạc lịch sử, giá trị văn hóa Việt Nam và dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu.

– Sự phân hóa giai cấp và mâu thuẫn xã hội diễn ra ngày càng gay gắt

Phần lớn giai cấp địa chủ cấu kết với thực dân Pháp ra sức bóc lột nông dân; một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau. Các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội Việt Nam đều mang thân phận người dân mất nước và đều bị thực dân áp bức, bóc lột, chèn ép nên đều căm phẫn thực dân Pháp. Do đó, mẫu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam lúc này, không chỉ là mâu thuẫn giữa Nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, mà đã nảy sinh mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa toàn thể Nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.

– Các cuộc khởi nghĩa và phong trào đấu tranh của quần chúng chống thực dân Pháp xâm lược diễn ra mạnh mẽ nhưng đều bị thất bại, xã hội Việt Nam rơi vào khủng hoảng về đường lối cách mạng

Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các cuộc khởi nghĩa và các phong trào đấu tranh của Nhân dân ta diễn ra liên tục và mạnh mẽ. Tuy nhiên do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến như phong trào Cần Vương đã chấm dứt với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo (1896); phong trào nông dân Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài 30 năm cũng không giành được thắng lợi. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lương Văn Can lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại,… Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.

  1. Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước và chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

– Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày 05/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Với khát vọng cháy bỏng giành độc lập tự do cho dân, cho nước, Nguyễn Tất Thành đã bất chấp mọi nguy hiểm, gian khổ, đi qua nhiều nước của châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã rút ra chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.

– Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp. Tháng 6 năm 1919, với tên mới là Nguyễn Ái Quốc, Người thay mặt những người yêu nước Việt Nam gửi đến Hội nghị Véc-xây Bản yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.

– Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin đăng trên báo Nhân đạo và cũng chính từ đây đã giải đáp cho Người con đường đấu tranh giành độc lập tự do thực sự cho dân tộc, cho đồng bào mình.

– Từ ngày 25 đến 30/12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp với tư cách đại biểu Đông Dương. Kết thúc Đại hội ngày 30/12/1920, Nguyễn Ái Quốc tán thành thành lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, và cũng là người Cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam.

– Từ năm 1921-1930, Nguyễn Ái Quốc vừa tiếp tục hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp, nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện tư tưởng cứu nước, vừa tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Người tập trung chuẩn bị về tổ chức và cán bộ, lập ra Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên (1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu, Trung Quốc, đồng thời gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc). Nhờ hoạt động không mệt mỏi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí cách mạng tiền bối mà đến cuối năm 1929, đầu năm 1930, những điều kiện cho sự ra đời của một Đảng vô sản ở Việt Nam đã chín muồi.

  1. Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

– Đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, ngày 17/6/1929, Kỳ Bộ Bắc Kỳ Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đã thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng tại Hà Nội. Tháng 11/1929, các đồng chí Tổng bộ và Kỳ Bộ Nam Kỳ của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên quyết định thành lập An Nam Cộng sản Đảng. Ngày 01/01/1930, những đại biểu ưu tú của Tân Việt cách mạng Đảng (một tổ chức tiền thân của Đảng) đã họp và thành lập Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn ở Trung Kỳ. Tuy nhiên ở một nước có tới ba tổ chức cộng sản nên không tránh khỏi sự phân tán về lực lượng và tổ chức, không thể thống nhất về tư tưởng và hành động. Trách nhiệm lịch sử là phải thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào Cộng sản ở Việt Nam.

– Từ ngày 06/01 đến ngày 07/02/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp ở bán đảo Cửu Long thuộc Hồng Kông (Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế Cộng sản. Trong Hội nghị thành lập Đảng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra 5 điểm lớn cần thảo luận và thống nhất, trước hết là tự phê bình và phê bình, “Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương”. Hội nghị đã nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành lập một đảng, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua các văn kiện gồm: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp bức, bóc lột nhân dịp thành lập Đảng. Trong đó, Chánh cương vắn tắt của Đảng và sách lược vắn tắt của Đảng phản ánh nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như Đại hội thành lập Đảng.

– Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã quyết nghị lấy ngày 03 tháng 02 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

  1. Ý nghĩa lịch sử sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

– Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam – thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác định được những nội dung cơ bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam; đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các tổ chức cộng sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc.

– Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đó là kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào cách mạng trong cả nước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sự đoàn kết nhất trí của những chiến sỹ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc.

– Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.

– Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang; đồng thời đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ của nhân loại trên thế giới.

  1. NHỮNG MỐC SON CHÓI LỌI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRÊN CHẶNG ĐƯỜNG 93 NĂM VINH QUANG CỦA ĐẢNG
  2. Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền (1930 – 1945)

Sau khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền với 3 cao trào cách mạng có ý nghĩa to lớn đưa đến thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đó là:

– Cao trào cách mạng 1930 – 1931 mà đỉnh cao là phong trào Xô Viết – Nghệ Tĩnh: Làm rung chuyển chế độ thống trị của đế quốc Pháp và tay sai. Dưới sự lãnh đạo của Đảng quần chúng cách mạng đã vùng dậy trừng trị bọn cường hào, phản động, tay sai thực dân Pháp, thành lập chính quyền cách mạng ở một số nơi theo hình thức Xô Viết. Cao trào cách mạng 1930 – 1931 đã khẳng định đường lối cách mạng Việt Nam do Ðảng đề ra là đúng đắn và để lại những bài học quý báu về xây dựng liên minh công – nông, về xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, về phát động phong trào quần chúng đấu tranh giành và bảo vệ chính quyền.

– Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 – 1939): Bằng sức mạnh đoàn kết của quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách về dân sinh, dân chủ; quần chúng được giác ngộ về chính trị và trở thành lực lượng chính trị hùng hậu của cách mạng; Đảng đã tích lũy được nhiều bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, kinh nghiệm tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai, hợp pháp…

– Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939 – 1945): Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết của Đảng, đứng đầu là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng với sự đoàn kết hăng hái, chiến đấu ngoan cường và hy sinh to lớn của biết bao đảng viên cộng sản, chiến sĩ và đồng bào yêu nước đã kết thúc thắng lợi bằng cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã phá tan sự thống trị của thực dân gần một trăm năm và lật đổ chế độ phong kiến đè nặng lên Nhân dân ta mấy mươi thế kỷ, mở ra bước ngoặt vĩ đại của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới; kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Khái quát ý nghĩa lịch sử của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và Nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.

  1. Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước (1945 – 1975)

2.1. Xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (1945 – 1954)

– Trong những năm 1945 – 1946, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo xây dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhân dân, bầu cử Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (06/01/1946); xây dựng và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên (09/11/1946); chăm lo xây dựng chế độ mới, đời sống mới của Nhân dân, chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ với sự ủng hộ và chi viện của cả nước; kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách mạng, bảo vệ chính quyền và thành quả Cách mạng Tháng Tám; đồng thời thực hành sách lược khôn khéo, đưa cách mạng vượt qua những thử thách hiểm nghèo. Đảng đã chủ động chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp trên phạm vi cả nước.

– Tháng 12/1946, trước dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến với quyết tâm “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Bằng đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân ta lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp giành thắng lợi mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc Chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Giơnevơ chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp ở nước ta.

2.2. Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954 – 1975)

– Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Nhân dân ta bắt tay vào xây dựng, khôi phục kinh tế – văn hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong khi đó ở miền Nam, đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, hất chân thực dân Pháp, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng. Nhiệm vụ của Đảng ta trong giai đoạn này hết sức nặng nề, đó là phải lãnh đạo cách mạng Việt Nam tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược gồm cách mạng dân tộc dân chủ Nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.

– Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân nêu cao quyết tâm đánh Mỹ, thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân bằng tầm cao khoa học và nghệ thuật. Với một đế quốc hùng mạnh bậc nhất thế giới, Đảng ta chủ trương đánh lâu dài; kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và hoạt động binh vận; kết hợp tiến công và nổi dậy, tiến hành đấu tranh trên cả ba vùng (đồng bằng, thành thị và miền núi); kết hợp mặt trận quân sự, chính trị với mặt trận ngoại giao; phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và sức mạnh thời đại. Bằng đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và tinh thần đấu tranh anh dũng kiên cường, bất khuất, bất chấp mọi gian khổ hy sinh của Nhân dân ta, cùng với sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Đây là một trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc, là một sự kiện có tầm quốc tế và có tính thời đại sâu sắc.

– Song song với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế – xã hội, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sau 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc đã giành được những thành tựu quan trọng, chuẩn bị cơ sở vật chất, kỹ thuật ban đầu cho chủ nghĩa xã hội; vừa sản xuất, vừa chiến đấu và chi viện sức người, sức của, hoàn thành vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam.

  1. Thời kỳ tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước, thực hiện công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1975 đến nay

3.1. Từ năm 1975 đến năm 1986

– Sau chiến tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân vừa ra sức khôi phục kinh tế vừa tiến hành hai cuộc chiến tranh chống xâm lược biên giới phía Bắc và Tây Nam, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; đồng thời tập trung lãnh đạo xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động. Tuy nhiên, việc duy trì lâu dài mô hình, cơ chế kinh tế tập trung bao cấp không còn phù hợp và đã bộc lộ những hạn chế, nhược điểm; việc hoạch định và thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, có lúc, có nơi đã mắc sai lầm khuyết điểm chủ quan, duy ý chí. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng kinh tế – xã hội trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

– Trước những thách thức của thời kỳ mới, Đảng ta đã tổng kết thực tiễn, tìm tòi, hoạch định đường lối đổi mới, ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 20/9/1979 của Hội nghị Trung ương 6 (khóa IV) về “Phương hướng nhiệm vụ phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương”; Chỉ thị 100-CT/TW, ngày 13/01/1981 của Ban Bí thư về “Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp”; Quyết định 25/QĐ-CP ngày 21/01/1981 của Chính phủ về đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, khóa V (tháng 6/1985) thừa nhận sản xuất hàng hóa và những quy luật của sản xuất hàng hóa; Kết luận của Bộ Chính trị (tháng 8/1986) về 3 quan điểm kinh tế trong tình hình mới…

3.2. Từ năm 1986 đến nay

– Trên cơ sở đánh giá tình hình đất nước và qua quá trình tìm tòi, khảo nghiệm, Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

– Trước bối cảnh mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, Đại hội VII của Đảng (tháng 6/1991) khẳng định tiếp tục đổi mới đồng bộ, triệt để trên các lĩnh vực với những bước đi, cách làm phù hợp và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xác định những quan điểm và phương hướng phát triển đất nước, khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.

– Các nghị quyết của Đảng từ Đại hội VIII đến nay tiếp tục khẳng định sự kiên định, kiên trì thực hiện đường lối đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới không ngừng được bổ sung và phát triển. Ðảng Cộng sản Việt Nam từng bước hoàn thiện và cụ thể hóa toàn diện các định hướng đổi mới, phát triển, xác định rõ trọng tâm trong từng giai đoạn. Ban Chấp hành Trung ương Ðảng các khóa đã ban hành nhiều nghị quyết về những vấn đề quan trọng; lãnh đạo để Quốc hội không ngừng bổ sung, hoàn thiện, thể chế hóa Hiến pháp, hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý ngày càng đồng bộ, phù hợp cho quá trình đổi mới; lãnh đạo Chính phủ cụ thể hóa thành các cơ chế, chính sách và giải pháp quản lý, quản trị phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc.

– Qua hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 và hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta vượt qua khủng hoảng kinh tế đã trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình; đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Văn hóa – xã hội có bước phát triển, công tác xóa đói, giảm nghèo đạt được những thành tựu quan trọng, sớm đạt được nhiều chỉ tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc, được quốc tế đánh giá cao. Diện mạo đất nước và đời sống của Nhân dân có nhiều thay đổi. Chính trị – xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Ðại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã và đang đạt được một số kết quả tích cực. Số lượng đảng viên không ngừng gia tăng. Đa số cán bộ, đảng viên và Nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào công cuộc đổi mới và triển vọng phát triển của đất nước. Nhiều đảng viên đã để lại nhiều tấm gương tốt thể hiện tinh thần tiên phong và tính gương mẫu.

– Những thành tựu sau hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước đã tạo đà cho sự phát triển trong những năm tiếp theo; đồng thời cũng là minh chứng sinh động khẳng định vai trò lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng ta. Đến nay, Việt Nam trở thành điểm hẹn của hòa bình, là đất nước có vị thế để sẵn sàng là bạn và đối tác tin cậy của tất cả các nước. Từ một đất nước bị bao vây cấm vận từ bên ngoài và khủng hoảng kinh tế – xã hội bên trong, sau hơn 35 năm đổi mới, nước ta có quan hệ hữu nghị hợp tác với 189 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có 17 nước đối tác chiến lược và 13 nước đối tác toàn diện; có quan hệ kinh tế với hơn 230 nền kinh tế, đã ký 15 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có các FTA thế hệ mới… Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu. Việt Nam có tầm ảnh hưởng và có uy tín lớn với bạn bè quốc tế. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày nay.

– Năm 2022, trước bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức lớn, bất ngờ xuất hiện, tác động xấu, nhiều mặt và ảnh hưởng nặng nề không chỉ đối với nước ta mà còn đối với toàn thế giới, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí quyết tâm, bản lĩnh, đoàn kết, năng động, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, với nhiều dấu ấn nổi bật: Vừa tập trung phòng, chống, kiểm soát dịch bệnh, vừa thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng và hiệu quả. GDP bình quân đầu người năm 2022 theo giá hiện hành đạt 95,6 triệu đồng/người, tương đương 4.110 USD, tăng 393 USD so với năm 2021. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Việt Nam tăng 8,02% so với năm trước, đạt mức tăng cao nhất trong giai đoạn 2011 – 2022. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,36%, đóng góp 5,11% vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,78%, đóng góp 38,24%; khu vực dịch vụ tăng 9,99%, đóng góp 56,65%. Về cơ cấu nền kinh tế năm 2022, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 11,88%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 38,26%; khu vực dịch vụ chiếm 41,33%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,53%

– Tính chung cả năm 2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 732,5 tỷ USD, tăng 9,5% so với năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 10,6%; nhập khẩu tăng 8,4%. Cán cân thương mại hàng hóa năm 2022 ước tính xuất siêu 11,2 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 371,85 tỷ đồng, tăng 10,6% so với năm trước; nhóm hàng công nghiệp chế biến chiếm 89%. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 360,65 tỷ đồng USD, tăng 8,4% so với năm trước; nhóm hàng tư liệu sản xuất chiếm 93,5% tỷ trọng bằng năm trước. Thị trường Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 109,1 tỷ đồng và Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 119,3 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ đạt 12,9 tỷ USD, tăng 145,2% so với năm trước; kim ngạch nhập khẩu dịch vụ đạt 25,5 tỷ USD tăng 23,6% so với năm trước.

– Chính trị xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được bảo đảm; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước; củng cố và nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, để lại những ấn tượng rất tốt đẹp, được Nhân dân và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, cho chúng ta thêm nhiều bài học quý. Công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng gắn với việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực được tập trung chỉ đạo, tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động của các cấp, các ngành. Bước đầu ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, góp phần củng cố niềm tin của đội ngũ cán bộ, đảng viên và Nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ. Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở các cấp, các ngành đã có nhiều nỗ lực, đạt được những kết quả đáng khích lệ, kết hợp hài hòa giữa “xây” và “chống”; phát huy hiệu quả tiềm lực, khẳng định vai trò, vị thế, uy tín ngày càng được nâng lên trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, góp phần bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ, nhất là trên môi trường mạng xã hội. Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được thực hiện với quyết tâm chính trị rất cao, đạt nhiều kết quả rõ rệt, đột phá, phản ánh đúng phương châm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, được Nhân dân đồng tình, ủng hộ.

Những kết quả đạt được là sản phẩm kết tinh từ truyền thống, văn hóa, văn hiến hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta; là thành quả lãnh đạo sáng suốt của Đảng ta trong suốt 93 năm qua.

  1. Những bài học kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam

Thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam trong suốt 93 năm qua, Đảng ta đã tích luỹ và đúc rút được nhiều bài học kinh nghiệm lớn:

Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội – ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.

Hai là, sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với Nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời Nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.

Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: Đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết – Thành công, thành công, đại thành công.

Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ, nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.

Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên.

Kỷ niệm 93 năm Ngày thành lập Đảng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vô cùng tự hào vì đất nước có một Đảng Cộng sản kiên cường, trung thành với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lãnh đạo Nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, làm nên những kỳ tích vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đóng góp xứng đáng vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, vì hòa bình và tiến bộ của nhân loại. Tự hào về Đảng quang vinh, về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân Việt Nam ở trong nước và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài càng thấy rõ hơn trách nhiệm của mình, không ngừng nỗ lực phấn đấu, tận tâm, tận lực, lao động sáng tạo, cống hiến vì lợi ích chung. Phát huy cao độ tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, vượt lên thách thức, đón bắt thời cơ; đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, tạo khí thế mới bước vào giai đoạn phát triển mới của đất nước, vì mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY KHÁNH HÒA

 

TÀI LIỆU TUYÊN TRUYỀN
KỶ NIỆM 93 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG BỘ
TỈNH KHÁNH HÒA (24/02/1930 – 24/02/2023)

 

  1. SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH KHÁNH HÒA

Lịch sử quang vinh và truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam trong chặng đường 93 năm qua, chúng ta rất tự hào về lịch sử của Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa. Sự ra đời, quá trình xây dựng và trưởng thành của Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa gắn liền với lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng bộ Khánh Hòa luôn quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo, đường lối, chủ trương, phương pháp cách mạng của Đảng, để lãnh đạo và tổ chức Nhân dân trong tỉnh tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng bền bỉ, liên tục, sâu rộng, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, từng bước đưa phong trào cách mạng tỉnh nhà tiến kịp với phong trào cách mạng chung của cả nước; lập nên những chiến công oai hùng và kỳ tích vẻ vang, góp phần cùng cả nước đánh thắng kẻ thù, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước.

Sự ra đời của Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa gắn liền với quá trình vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, bắt nguồn từ một trong ba tổ chức tiền thân của Đảng là Đông Dương Cộng sản Liên đoàn.

Tại Khánh Hòa, trong những năm 1925-1927, hai thầy giáo là hai cán bộ Đảng Tân Việt được điều vào dạy học tại Khánh Hòa, thầy Hà Huy Tập dạy ở Trường Pháp Việt – Nha Trang, thầy Ngô Đức Diễn dạy ở Trường Pháp Việt – Tân Định. Vừa dạy học, thầy Hà Huy Tập và thầy Ngô Đức Diễn vừa tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin trong học sinh, thanh niên, viên chức, công nhân, hoạt động gây cơ sở Đảng Tân Việt. Đến năm 1927, các thầy đã nhen nhóm, gây dựng được cơ sở Đảng Tân Việt ở hai địa phương trong tỉnh là thị xã Nha Trang và huyện Tân Định (nay là thị xã Ninh Hòa). Trên cơ sở ấy, Đảng bộ Tân Việt Khánh Hòa được thành lập thuộc Liên tỉnh ngũ trang gồm 5 tỉnh (Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đà Lạt, Đắk Lắk).

Năm 1929, phong trào cách mạng trong cả nước đang trên đà phát triển mạnh mẽ theo đường hướng của đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra, tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội không còn đáp ứng yêu cầu lãnh đạo cách mạng. Đại biểu Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội ở miền Bắc ngày 17/6/1929 đứng ra thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng. Và chỉ mấy tháng sau, bộ phận tiên tiến trong Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội ở Nam kỳ đã giải tán Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội, thành lập An Nam Cộng sản Đảng.

Dưới ảnh hưởng của các sự kiện trên, nội bộ Đảng Tân Việt cũng có sự phân hóa sâu sắc. Tháng 12/1929, các đảng viên tiên tiến trong Đảng Tân Việt ở các tỉnh Bắc và Trung kỳ đồng ý thành lập Đảng Cộng sản lấy tên là Đông Dương Cộng sản Liên đoàn và quyết định triệu tập Đại hội thành lập ngày 01/01/1930.

Tại Khánh Hòa, sau khi có chủ trương thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, đồng chí Trần Hữu Duyệt thay mặt cho Xứ ủy Đông Dương Cộng sản Liên đoàn Nam kỳ triệu tập một hội nghị quan trọng gồm những người lãnh đạo trong Đảng Tân Việt của tỉnh và các phủ, huyện. Hội nghị đã bàn kế hoạch thanh đảng và chuyển những cơ sở của Đảng Tân Việt sang Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, củng cố các chi bộ, thành lập Tỉnh ủy lâm thời Đông Dương Cộng sản Liên đoàn do đồng chí Trần Hữu Duyệt làm Bí thư và lập cấp ủy lâm thời ở các huyện.

Trước tình hình trong nước ta có 3 tổ chức cộng sản, được sự ủy nhiệm của Quốc tế cộng sản, ngày 03/02/1930, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị thống nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại Hội nghị thành lập Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn không dự họp được vì không kịp cử đại biểu đến dự. Vì vậy ngày 24/02/1930, đồng chí Ngô Gia Tự, đại diện cho Ban Chấp hành Trung ương lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam ký quyết định công nhận Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính vì vậy, ngày 24/02/1930 được lấy làm ngày chính thức thành lập Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa.

Việc thành lập Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa đánh dấu phong trào cách mạng trong tỉnh chuyển kịp theo trào lưu chung. Từ đây, phong trào cách mạng gắn liền với sự lãnh đạo duy nhất của Đảng, là yếu tố cơ bản, quyết định để phong trào cách mạng trong tỉnh tiến lên giành thắng lợi.

  1. ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO CÁCH MẠNG CỦA TỈNH TRONG SỰ NGHIỆP ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP DÂN TỘC

1.Thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930 – 1945)

Ngay sau khi thành lập, hưởng ứng lời hiệu triệu của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ đã phát động Nhân dân trong tỉnh tiến hành một phong trào đấu tranh rộng lớn. Mở đầu bằng cuộc tổ chức kỷ niệm Ngày Quốc tế Lao động 01/5/1930. Ngày này, khắp nơi trong tỉnh đều treo cờ Đảng, rải truyền đơn, hội họp, mít tinh. Ý nghĩa ngày kỷ niệm được giải thích tương đối sâu rộng trong đảng viên và cơ sở quần chúng, đặc biệt là trong đội ngũ công nhân, viên chức…Tiếp đến, Đảng bộ đã lãnh đạo Nhân dân huyện Tân Định (nay là thị xã Ninh Hòa) tiến hành cuộc biểu tình ngày 16/7/1930 có trên 1.000 người tham gia với cờ đỏ búa liềm, trống lệnh rầm rập tiến vào huyện đường Tân Định, đấu tranh đòi chính quyền bù nhìn tay sai của thực dân Pháp bãi bỏ sưu cao, thuế nặng.

Thời kỳ 1936-1939, trước bối cảnh mới của tình hình thế giới và trong nước, Đảng ta chuyển hướng đấu tranh theo đường lối mới – đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ. Thời kỳ đầu tuy tổ chức Đảng trong tỉnh chưa được khôi phục lại, nhưng những cán bộ, đảng viên còn lại của Đảng bộ luôn đứng ở hàng đầu và đi sát lãnh đạo các cuộc đấu tranh của Nhân dân. Mỗi cuộc vận động đấu tranh đều hướng vào mục tiêu thiết thực, các khẩu hiệu đấu tranh đều nhằm vào các yêu cầu cấp thiết trước mắt của quần chúng. Kết quả là quyền lợi của công nhân, nông dân và các tầng lớp trí thức, học sinh, viên chức… được thực hiện một phần.

Thời kỳ 1939 – 1945, đây là thời kỳ dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân ta tiến hành cao trào giải phóng dân tộc dẫn tới Cách mạng Tháng Tám 1945 trên cả nước. Đến sau ngày Nhật đảo chính Pháp (09/3/1945) tin tức vùng giải phóng Việt Bắc dội về, được cuộc khởi nghĩa Ba Tơ (Quảng Ngãi) tác động, lúc này lại được đông đảo tù chính trị từ các căng an trí và lao tù đế quốc tỏa về tiếp sức, đưa phong trào trong tỉnh mạnh lên với khí thế mới. Tháng 4/1945, Tỉnh ủy lâm thời được thành lập lại. Tổ chức Việt Minh phát triển nhanh chóng khắp các phủ, huyện, thị xã Nha Trang, ăn sâu vào các làng xã, đường phố, xí nghiệp, đồn điền, các ngành trong bộ máy ngụy quyền và binh sĩ người Việt trong hàng ngũ địch. Đầu tháng 8/1945, Tỉnh uỷ lâm thời và tổ chức Việt Minh đẩy mạnh công tác chuẩn bị lực lượng vũ trang, sẵn sàng đón thời cơ khởi nghĩa. Tháng 8/1945 khi thời cơ cách mạng đến, Đảng bộ đã phát động Nhân dân trong tỉnh vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi, xóa bỏ hoàn toàn chính quyền tay sai của giặc Nhật, thành lập chính quyền cách mạng từ tỉnh đến cơ sở. Mở đầu là cuộc khởi nghĩa ở Vạn Ninh đêm 13/8/1945 và kết thúc là cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở huyện Cam Ranh (nay là thành phố Cam Ranh) sáng ngày 22/8/1945. Đặc biệt là cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Nha Trang diễn ra thắng lợi cùng ngày 19/8/1945 giành chính quyền ở thủ đô Hà Nội.

  1. Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954)

Sau ngày khởi nghĩa, Nhân dân Khánh Hòa từ miền núi, đến đồng bằng, đô thị, không phân biệt tầng lớp giai cấp, tôn giáo, tất cả đều vùng dậy với khí thế như nước triều dâng, khẩn trương xây dựng chính quyền cách mạng, tổ chức và huấn luyện dân quân, tự vệ chăm lo đời sống Nhân dân và chuẩn bị kháng chiến.

Vừa tròn một tháng sau ngày Nam Bộ kháng chiến, tiếng súng tấn công địch rạng ngày 23/10/1945 của quân, dân Nha Trang – Khánh Hòa cùng các đơn vị Vệ quốc đoàn được tăng viện, đã bao vây, tiêu hao và kìm chân giặc Pháp 101 ngày đêm tại thị xã Nha Trang. Chiến công chói lọi trên Mặt trận Nha Trang, Khánh Hòa đã góp phần cùng cuộc chiến đấu anh dũng của quân, dân cả nước, bước đầu làm thất bại âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của giặc Pháp.

Khánh Hòa là một tỉnh thuộc vùng bị địch tạm chiếm, trải qua chín năm kháng chiến đầy ác liệt, phong trào nhân dân du kích chiến tranh có những lúc lên cao trong những năm 1946, 1947, 1948 hoặc xuống thấp như các năm 1950, 1951, 1952. Song Nhân dân Khánh Hòa đoàn kết một lòng theo Đảng, Bác Hồ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, phong trào cách mạng đã vượt qua những chặng đường đầy gian nan thử thách, đến năm 1953, 1954, đã đưa phong trào kháng chiến trong tỉnh phối hợp nhịp nhàng cùng với cả nước trong chiến cuộc Xuân Hè 1954. Những chiến công của quân và dân Khánh Hòa đã góp phần xứng đáng cùng cả nước đánh thắng thực dân Pháp xâm lược.

  1. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 – 1975)

Khánh Hòa là một tỉnh cực Nam Trung Bộ nối liền bởi các đường chiến lược Quốc lộ 1, Quốc lộ 21 (nay là Quốc lộ 26), là đầu mối hội tụ giao lưu kinh tế và văn hóa của Nam Trung Bộ. Khi trở lại xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp đã lấy Khánh Hòa làm bàn đạp để mở rộng chiếm đóng Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, xây dựng Khánh Hòa thành hậu phương của chúng. Trong khi ra sức biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa thực dân kiểu mới, đế quốc Mỹ chiếm Cam Ranh, xây dựng thành quân cảng và căn cứ quân sự liên hợp lớn nhất Đông Nam Á. Cam Ranh với Nha Trang là những căn cứ hậu cần lớn của Mỹ, là nơi đóng các cơ quan chỉ huy Vùng II chiến thuật, nơi đào tạo sĩ quan hải quân, lục quân, không quân, nơi nghỉ dưỡng để chấn chỉnh, lấy lại sức cho các đơn vị đã tham chiến của địch.

Nắm vững đặc điểm trên đây, với bản thân lực lượng địa phương là chính, dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, của Khu ủy V, Đảng bộ và quân dân tỉnh Khánh Hòa đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được cấp trên giao phó là đánh phá hậu phương của địch, phá các cơ sở hậu cần, cắt đứt giao thông làm trở ngại sự chi viện của địch đến các chiến trường khác, có lúc còn buộc chúng rút lực lượng cơ động đang làm nhiệm vụ ở các chiến trường khác rút lui về giữ hậu phương.

Tuy hoạt động trên một chiến trường ở xa sự chỉ đạo và chi viện của trên, lại là chiến trường diễn ra liên tục suốt 30 năm từ sau Cách mạng Tháng Tám, hết đánh thực dân Pháp đến đế quốc Mỹ, nhưng quân và dân Khánh Hòa đã phát huy tinh thần tự lực tự cường, chịu đựng gian khổ hy sinh, khắc phục khó khăn, thiếu thốn, giữ vững tư tưởng tiến công cách mạng thực hiện cuộc chiến tranh nhân dân rộng khắp, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và hoạt động binh vận, kết hợp tiến công và nổi dậy, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược (đồng bằng, thị xã, thị trấn và miền núi) đưa phong trào kháng chiến của tỉnh tiến kịp những thời điểm chuyển phong trào cách mạng từ thế thủ sang thế tiến công, đánh bại các chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, “Chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh” trên địa bàn tỉnh, đồng thời góp phần giải phóng quần đảo Trường Sa của Tổ quốc.

Tháng 4/1975, sau khi đã đánh đuổi và làm tan rã trên gần 60 vạn quân địch, Khánh Hòa một mặt lo ổn định và củng cố những vùng mới giải phóng, mặt khác ra sức động viên lực lượng góp phần làm nhiệm vụ hậu cần chi viện cho quân chủ lực đang thần tốc tiến vào giải phóng các tỉnh phía Nam, thực hiện Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đánh sập đầu não ngụy quyền Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất nước nhà.

III. ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO TỈNH KHÁNH HÒA CÙNG VỚI CẢ NƯỚC ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

  1. Thời kỳ đầu sau ngày giải phóng (4/1975 – 11/1975)

Đây là thời kỳ Đảng bộ và Nhân dân Khánh Hoà đứng trước nhiều vấn đề phức tạp do hậu quả cuộc chiến tranh để lại rất nặng nề. Mặc dù vậy, với khí thế của người chiến thắng, Đảng bộ và Nhân dân đã nhanh chóng tiếp quản tỉnh nhà mới giải phóng. Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng ngày 10/4/1975 kịp thời phân công cán bộ xây dựng củng cố chính quyền cách mạng và các đoàn thể quần chúng từ tỉnh đến xã, phường. Việc trấn áp bọn phản cách mạng được tiến hành kiên quyết kịp thời; việc ổn định đời sống, nhất là giải quyết nạn đói, việc làm, tổ chức các ngành nghề sản xuất được tiến hành khẩn trương. Ngành Y tế, ngành Giáo dục mở lại các cơ sở cũ, mở thêm cơ sở mới kịp thời phục vụ Nhân dân. Nhờ những cố gắng nói trên, cuộc sống của Nhân dân trong tỉnh sớm được ổn định để bước vào thời kỳ mới.

  1. Thời kỳ sáp nhập tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa thành tỉnh Phú Khánh (11/1975 – 6/1989)

Thời kỳ này, tình hình nước ta nói chung, Phú Khánh nói riêng gặp nhiều khó khăn. Mặc dù phải đương đầu với những âm mưu và hành động chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, vừa phải xây dựng cuộc sống mới từ một nền kinh tế lạc hậu, bị tàn phá trong chiến tranh, nhưng dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, V, VI và Nghị quyết Đảng bộ tỉnh Phú Khánh lần thứ I, II, III, IV, trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa đã đạt được những thành tựu nhất định. Đó là, đã cải tạo xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong công nghiệp, công thương nghiệp tư doanh; tiếp tục khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh; xây dựng và phát triển một số cơ sở vật chất kỹ thuật, cải thiện từng bước đời sống người lao động; sự nghiệp giáo dục, văn hóa, y tế tiếp tục phát triển. Xây dựng và củng cố hệ thống chính trị đều khắp từ tỉnh đến cơ sở, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân được chú trọng… Tuy nhiên bên cạnh thành tựu đạt được, tỉnh Phú Khánh cũng như cả nước vẫn đứng trước nhiều khó khăn về kinh tế và đời sống, sản xuất phát triển chậm, năng suất lao động thấp, kết cấu hạ tầng yếu kém; tiềm năng và thế mạnh của tỉnh chưa được khai thác, nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội nảy sinh. Nguyên nhân là do duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, sớm xóa bỏ các thành phần kinh tế tư bản, cá thể, phạm một số sai lầm và khuyết điểm trong chỉ đạo thực tiễn.

  1. Thời kỳ thực hiện đường lối Đổi mới (1989 đến nay)

Ngày 01/7/1989, Đảng và Nhà nước ta quyết định chia lại địa giới hành chính tỉnh Phú Khánh thành hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hoà. Đây là thời kỳ Đảng bộ và Nhân dân Khánh Hòa cùng cả nước triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX, X, XI, XII. Qua các kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII, XIII, XIV, XV, XVI, XVII, XVIII đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, hơn 35 năm thực hiện đường lối Đổi mới do Đảng lãnh đạo, Đảng bộ và Nhân dân Khánh Hòa đã phát huy truyền thống anh hùng, đoàn kết, nhất trí, năng động, sáng tạo, nêu cao bản lĩnh, khí phách của vùng đất, con người Khánh Hòa, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, khai thác hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh cho phát triển nhanh, bền vững.

Sau 10 năm thực hiện Kết luận số 53-KL/TW, ngày 24/12/2012 của Bộ Chính trị khóa XI về xây dựng, phát triển tỉnh Khánh Hòa đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, Khánh Hòa đã khai thác và phát huy tương đối tốt các tiềm năng, lợi thế, nhất là lợi thế về biển cho phát triển kinh tế – xã hội. Kinh tế tăng trưởng khá, giai đoạn 2012 – 2019 đạt mức bình quân hơn 7,32%/năm. Năm 2019, quy mô nền kinh tế tăng 1,76 lần so với năm 2011; tổng sản phẩm bình quân đầu người đạt mức 70,07 triệu đồng, tăng 2,3 lần so với năm 2011; thu ngân sách tăng nhanh, bảo đảm tự cân đối ngân sách địa phương và có điều tiết về Trung ương. Kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, nhất là hạ tầng giao thông được chú trọng đầu tư, nâng cấp. Hệ thống đô thị ven biển được hình thành tương đối hiện đại. Khu kinh tế Vân Phong từng bước tác động tích cực đến phát triển kinh tế của tỉnh và vùng. Du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Khánh Hòa là trung tâm du lịch biển quốc gia, có thương hiệu quốc tế; từng bước trở thành một cực tăng trưởng trong khu vực.

Năm 2022, tỉnh Khánh Hòa đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nổi bật là việc Trung ương ban hành các Nghị quyết về xây dựng, phát triển tỉnh Khánh Hòa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; tình hình kinh tế – xã hội tỉnh nhà đã phục hồi mạnh mẽ và tăng trưởng tốt, tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) tăng 20,7% so với năm 2021, cao nhất cả nước; GRDP bình quân đầu người đạt 76,54 triệu đồng, tăng 22,34% so năm 2021. Thu ngân sách nhà nước đến hết ngày 31/12/2022 là 16.485 tỷ đồng, vượt 37,2% dự toán và tăng 17,1% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 21,7% so với cùng kỳ. Tổng mức bán hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng năm đạt 151.176,1 tỷ đồng, tăng 42,62% so với cùng kỳ. Tổng doanh thu du lịch năm 2022 đạt 13.843,8 tỷ đồng, bằng 346,09% kế hoạch và gấp 5,75 lần so với cùng kỳ. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu trên địa bàn tỉnh đạt 1.600 triệu USD, tăng 22,87% so với cùng kỳ. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2022 đạt 61.982,4 tỷ đồng, tăng 15,01% so năm 2021; tỷ lệ giảm nghèo đạt 0,62% (vượt chỉ tiêu là 0,33%), làm giảm tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh còn 3,53%.

Kết quả đạt được trong năm 2022 rất có ý nghĩa, tạo tiền đề, động lực cho quá trình phục hồi, phát triển kinh tế, hướng tới mục tiêu đưa Khánh Hòa trở thành thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2030; tiếp tục khẳng định giá trị, tiềm năng, vị trí chiến lược đặc biệt của tỉnh, là sự ghi nhận sự nỗ lực không ngừng nghỉ của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và của toàn thể Nhân dân trong tỉnh.

Năm 2022 cũng là năm Khánh Hòa triển khai thực hiện cơ bản các quy hoạch chính: Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Điều chỉnh Quy hoạch chung thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa đến năm 2040; Điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng Khu Kinh tế Vân Phong đến năm 2040, tầm nhìn đến năm 2050; Quy hoạch chung Đô thị mới Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa đến năm 2045; Điều chỉnh quy hoạch chung thành phố Cam Ranh đến năm 2035… Đây là bước khởi đầu để Khánh Hòa bước vào giai đoạn phát triển mới căn cơ, bền vững.

Công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị được các cấp ủy đảng chú trọng triển khai thường xuyên, bài bản, đạt nhiều kết quả tích cực. Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn với Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII, XIII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã trở thành nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên. Cấp ủy và chính quyền các cấp từ tỉnh đến cơ sở đã chú trọng đổi mới thực chất phong cách lãnh đạo, phương pháp công tác, lề lối làm việc; nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện, chấp hành kỷ luật, kỷ cương, đạo đức công vụ, cùng với sự kiên quyết trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, đã tạo nên sự cộng hưởng sức mạnh cho quán trình phát triển, gia tăng niềm tin trong xã hội. Công tác phát triển đảng viên mới được quan tâm, tính đến ngày 26/12/2022, toàn tỉnh đã kết nạp được 1.793 đảng viên mới, đạt 105,4%. Nâng tổng số đảng viên trên địa bàn tỉnh lên 47.349 đảng viên.

Năm 2023, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân Khánh Hòa tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, nỗ lực, quyết tâm thực hiện hiệu quả mục tiêu, định hướng của năm “quy hoạch – đầu tư” tạo đà bứt phá trong phát triển kinh tế – xã hội, từng bước hiện thực hóa Nghị quyết số 09- NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng, phát triển tỉnh Khánh Hòa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; thực hiện thắng lợi mục tiêu nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp, nhiệm kỳ 2020 – 2025 và mục tiêu đưa Khánh Hòa trở thành thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2030.

Kỷ niệm 93 năm thành lập Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa, toàn Đảng bộ, toàn dân, toàn quân tỉnh Khánh Hòa vô cùng tự hào vì đất nước có một Đảng Cộng sản Việt Nam kiên cường, trung thành với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đã lãnh đạo Nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, làm nên những kỳ tích vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đóng góp xứng đáng vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, vì hòa bình và tiến bộ của nhân loại.

Bước sang năm 2023, bên cạnh thời cơ, thuận lợi, dự báo sẽ có nhiều yếu tố bất lợi, khó lường ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh. Phát huy truyền thống, lịch sử vẻ vang của Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa, mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân Khánh Hòa cần nêu cao tinh thần thi đua yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, đoàn kết, năng động, sáng tạo, khát vọng vươn lên, nỗ lực hoàn thành tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội trong năm 2023, phấn đấu xây dựng quê hương Khánh Hòa phát triển nhanh, bền vững và toàn diện, từng bước hiện thực hóa mục tiêu trở thành đô thị trực thuộc Trung ương.

BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY KHÁNH HÒA

 

THEO DÒNG LỊCH SỬ

– 03/02/1930: Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

– 07/02/1418: Ngày Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa Lam Sơn.

– 15/02/1943: Ngày mất anh Kim Đồng- Người đội viên đầu tiên của Đội Nhi đồng cứu quốc (tiền thân của Đội TNTP Hồ Chí Minh).

– 27/02/1955: Ngày Thầy thuốc Việt Nam.

 

NHỮNG CHÍNH SÁCH CÓ HIỆU LỰC TỪ THÁNG 02/2023

  1. Quy định mới về mua, chuyển, mang ngoại tệ ra nước ngoài

Thông tư 20/2022/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn hoạt động chuyển tiền một chiều từ Việt Nam ra nước ngoài và thanh toán, chuyển tiền cho các giao dịch vãng lai khác của người cư trú là tổ chức, cá nhân có hiệu lực từ ngày 15/2.

Trong đó quy định các trường hợp mua, chuyển, mang ngoại tệ ra nước ngoài để phục vụ mục đích tài trợ, viện trợ của tổ chức bao gồm mua, chuyển, mang ngoại tệ ra nước ngoài để tài trợ, viện trợ theo các cam kết, thỏa thuận giữa Nhà nước, Chính phủ, các cấp chính quyền địa phương với nước ngoài. Nguồn tài trợ, viện trợ là các khoản kinh phí từ ngân sách hoặc nguồn tiền của chính tổ chức tài trợ, viện trợ.

Mua, chuyển ngoại tệ ra nước ngoài để tài trợ, viện trợ khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh. Nguồn tài trợ, viện trợ là nguồn tiền đóng góp tự nguyện từ các tổ chức, cá nhân trong nước và/hoặc nguồn tiền của chính tổ chức tài trợ, viện trợ.

Mua, chuyển ngoại tệ ra nước ngoài để tài trợ cho các chương trình, các quỹ, dự án do tổ chức trong nước và/hoặc tổ chức ở nước ngoài thành lập nhằm mục đích hỗ trợ và khuyến khích phát triển trong các lĩnh vực: văn hóa, giáo dục (tài trợ học bổng), y tế. Nguồn tài trợ là nguồn tiền của chính tổ chức tài trợ…

  1. Không cần chờ đến 2 năm khi giám định lại sức khỏe do tai nạn lao động

Cũng trong tháng 2/2023, Thông tư 18/2022/TT-BYT có hiệu lực quy định việc người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đã thực hiện giám định sức khỏe để hưởng chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hoàn toàn có thể chủ động đi khám giám định lại mức suy giảm khả năng lao động nếu có nhu cầu.

Cũng theo quy định mới, người lao động còn được Quỹ Bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề trả phí khám giám định lại nếu kết quả khám giám định xác định người lao động đủ điều kiện để điều chỉnh tăng mức hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.

Nếu kết quả giám định lại không đủ để được điều chỉnh tăng mức trợ cấp, người lao động chủ động đề nghị khám giám định lại sẽ phải tự chịu chi phí khám giám định.

  1. Quy định mới về đóng lệ phí đăng ký thường trú, tạm trú

Từ 5/2, Thông tư 75/2022 của Bộ Tài chính có hiệu lực quy định mức đóng lệ phí đăng ký thường trú là 20.000 đồng/lần đăng ký nếu nộp hồ sơ trực tiếp, 10.000 đồng/lần đăng ký nếu nộp hồ sơ qua cổng dịch vụ công trực tuyến.

Công dân đăng ký tạm trú, gia hạn tạm trú cá nhân, hộ gia đình thì lệ phí là 15.000 đồng/lần đăng ký trực tiếp, 7.000 đồng/lần đăng ký qua cổng dịch vụ công trực tuyến.

Trường hợp tách hộ, đăng ký tạm trú theo danh sách, gia hạn tạm trú theo danh sách, mức đóng lệ phí lần lượt là 10.000 đồng/lần đăng ký trực tiếp, 5.000 đồng/lần đăng ký qua cổng dịch vụ công trực tuyến.

Một số trường hợp được miễn lệ phí đăng ký gồm trẻ em là người dưới 16 tuổi; người cao tuổi là người từ đủ 60 tuổi trở lên; người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn…

  1. Hỗ trợ người trồng lúa không thấp hơn 50% kinh phí

Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 02/2023/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 18/2016/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Nghị định số 35/2015/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý, sử dụng đất trồng lúa.

Tùy thuộc vào điều kiện cụ thể, địa phương sẽ quyết định thực hiện các việc như hỗ trợ cho người trồng lúa: Sử dụng không thấp hơn 50% kinh phí dùng hỗ trợ cho người trồng lúa để áp dụng giống mới, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới trong sản xuất lúa; hỗ trợ liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.

Phần kinh phí còn lại để thực hiện các việc gồm phân tích chất lượng hóa, lý tính của các vùng đất chuyên trồng lúa nước có năng suất, chất lượng cao định kỳ 10 năm để sử dụng hiệu quả và có biện pháp cải tạo phù hợp… Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20/2/2023.

Nguồn: Báo Tiền phong