Những điểm mới trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật Bầu cử đại biểu HĐND

241

Tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử (BC) đại biểu (ĐB) Quốc hội (QH) và Luật BC ĐB HĐND. Những điểm mới của Luật tập trung vào sửa một số vấn đề thực sự cần thiết liên quan đến công tác tổ chức BC khi tiến hành BC ĐBQH và ĐB HĐND các cấp trong cùng một ngày, bảo đảm sự thành công của cuộc BC.

Về khu vực bỏ phiếu và số lượng cử tri trong mỗi khu vực bỏ phiếu (Điều 12 của Luật BC ĐBQH, Điều 13 của Luật BC ĐB HĐND)

Luật sửa đổi, bổ sung quy định về số lượng cử tri tại mỗi khu vực bỏ phiếu và quy định khu vực bỏ phiếu BC ĐBQH đồng thời là khu vực bỏ phiếu BC ĐB HĐND các cấp. Số lượng cử tri tại mỗi khu vực bỏ phiếu được sửa đổi thống nhất từ 300 đến 4.000 cử tri. Với số lượng cử tri tại mỗi khu vực bỏ phiếu được quy định với biên độ dao động từ 300 đến 4.000 cử tri sẽ vẫn bảo đảm thuận lợi cho việc bỏ phiếu của cử tri cũng như việc thành lập các khu vực bỏ phiếu; đồng thời cũng không gây quá tải về công việc đối với các Tổ BC trong điều kiện đã tăng số lượng thành viên tại mỗi Tổ BC.

Đối với những địa bàn và đơn vị có đặc thù riêng sẽ tùy thuộc vào số lượng cử tri và điều kiện cụ thể mà các cơ quan có thẩm quyền sẽ thành lập khu vực bỏ phiếu riêng hoặc phối hợp với các nơi khác thành lập khu vực bỏ phiếu chung nhằm bảo đảm thuận lợi nhất cho cử tri đi BC.

Đối với những nơi không có đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn thì việc chia khu vực bỏ phiếu do UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định.

Về các tổ chức phụ trách BC

a) Về Hội đồng (HĐ) BC (Điều 14 của Luật BC ĐBQH, Điều 15a của Luật BC ĐB HĐND)

Về HĐBC được gọi chung là HĐBC Trung ương, vì chỉ có duy nhất một HĐBC nên không phải đổi tên.

b) Về các tổ chức phụ trách BC ở địa phương

Trong điều kiện BC chung và thống nhất về tổ chức của một số tổ chức phụ trách BC, Luật sửa đổi, bổ sung đã giao cho UBND là cơ quan chủ trì thành lập các tổ chức phụ trách BC ở địa phương để đảm bảo tính thống nhất trong toàn quốc về cơ quan chủ trì thành lập tổ chức phụ trách BC (vì UBND có đầy đủ ở cả 3 cấp; trong khi đó, ở các địa phương đang thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường sẽ không có Thường trực HĐND).

+ Ủy ban (UB) BC ĐBQH và ĐB HĐND cấp tỉnh:

– Luật sửa đổi, bổ sung đã thành lập UBBC ĐBQH và ĐB HĐND cấp tỉnh để thay thế và thực hiện chung nhiệm vụ, quyền hạn của cả UBBC ĐBQH và HĐBC ĐB HĐND cấp tỉnh (sửa đổi, bổ sung Điều 15 Luật BC ĐBQH, Điều 16 Luật BC ĐB HĐND).

– Các HĐBC ĐB HĐND cấp huyện, cấp xã cũng được đổi tên tương ứng thành UBBC (sửa đổi, bổ sung Điều 15 Luật BC ĐB HĐND).

+ Ban BC (Điều 16 và 82 của Luật BC ĐBQH, khoản 1, Điều 17 và Điều 70 của Luật BC ĐB HĐND):

Luật sửa đổi, bổ sung đã sửa đổi về cơ quan chủ trì thành lập, thành phần Ban BC ĐBQH nhằm bảo đảm tính thống nhất với việc thành lập tổ chức phụ trách BC ở cấp tỉnh và cấp xã.
+ Tổ BC (Điều 17 và Điều 83 của Luật BC ĐBQH, Điều 18 và Điều 71 của Luật BC ĐB HĐND).

Luật sửa đổi, bổ sung đã quy định Tổ BC đồng thời thực hiện công tác BC ĐBQH và ĐB HĐND cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã tại cùng một khu vực bỏ phiếu. Tổ BC sẽ được tăng thêm số lượng thành viên. Sửa đổi thống nhất quy định về cơ quan chủ trì thành lập, thành phần và số lượng thành viên của Tổ BC (từ 11 đến 21 người).

Về số người ứng cử ở mỗi đơn vị BC ĐBQH (Điều 46 của Luật BC ĐBQH)

Để bảo đảm tính khả thi, phù hợp với thực tiễn, Điều 46 Luật BC ĐBQH được sửa đổi theo hướng “Số người trong danh sách ứng cử ĐBQH ở mỗi đơn vị BC phải nhiều hơn số ĐB được bầu ở đơn vị đó; nếu đơn vị BC đó được bầu 3 ĐB thì số người trong danh sách ứng cử phải nhiều hơn số ĐB được bầu ít nhất là 2 người. Trong trường hợp khuyết người ứng cử vì lý do bất khả kháng thì do HĐBC quyết định”.

Quy định về số dư trong Luật sửa đổi, bổ sung là quy định chung cho tất cả những người ứng cử ở đơn vị BC đó mà không phân biệt ứng cử viên do Trung ương hay địa phương giới thiệu.

Trường hợp khuyết người ứng cử trong những trường hợp nêu trên thì HĐBC có thể quyết định chọn người có tín nhiệm cao nhất trong số những người còn lại ở danh sách đã hiệp thương lần thứ ba để đưa vào danh sách chính thức những người ứng cử ĐBQH hoặc quyết định điều chuyển người ứng cử ở đơn vị BC khác trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc quyết định giảm số ĐB được bầu ở đơn vị BC đó.

Về thời gian BC (Điều 57 của Luật BC ĐBQH, Điều 48 của Luật BC ĐB HĐND)

Trong điều kiện BC chung cả ĐBQH và ĐB HĐND thì quy định tại 2 Luật BC về kết thúc sớm cuộc BC không còn phù hợp. Vì vậy, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều bỏ quy định về kết thúc cuộc bỏ phiếu sớm hơn ở những khu vực bỏ phiếu đã có 100% cử tri đi bầu tại Điều 48 của Luật BC ĐB HĐND và giữ nguyên quy định tại Điều 57 của Luật BC ĐBQH hiện hành.

Về trường hợp hoãn hoặc bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định (Điều 55 của Luật BC ĐBQH, Điều 54 của Luật BC ĐB HĐND)

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BC ĐBQH và Luật BC ĐB HĐND quy định trường hợp đặc biệt cần hoãn ngày bỏ phiếu hoặc bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định thì Tổ BC phải kịp thời báo cáo Ban BC để đề nghị UBBC trình HĐBC xem xét, quyết định.

Theo baokhanhhoa.vn