Ngày 12-1, trong phiên khai mạc Ðại hội lần thứ XI của Ðảng, đồng chí Trương Tấn Sang, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, đã trình bày Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khóa X. Toàn văn như sau:
A- KIỂM ÐIỂM SỰ LÃNH ÐẠO, CHỈ ÐẠO CỦA BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG, BỘ CHÍNH TRỊ, BAN BÍ THƯ
Năm năm qua, bên cạnh những mặt thuận lợi, tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường; xung đột vũ trang, bạo loạn lật đổ, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ… diễn ra ở nhiều nơi; thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu trở thành những vấn đề nghiêm trọng trên quy mô toàn cầu. Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới đã ảnh hưởng mạnh đến kinh tế – xã hội nước ta. Trong bối cảnh đó, Ban Chấp hành Trung ương đã lãnh đạo toàn Ðảng, toàn dân nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thử thách đạt được những thành tựu quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ Ðại hội X đã đề ra, nhưng đồng thời cũng còn những hạn chế, khuyết điểm cần được khắc phục. Ban Chấp hành Trung ương xin kiểm điểm trước Ðại hội về sự lãnh đạo, chỉ đạo trong nhiệm kỳ Ðại hội X như sau:
I- BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
1- Tập thể Ban Chấp hành Trung ương
1.1- Ưu điểm
a) Về lãnh đạo triển khai thực hiện Nghị quyết Ðại hội X
Về triển khai Nghị quyết Ðại hội X:
Ngay sau Ðại hội, trên cơ sở Cương lĩnh, Ðiều lệ và Nghị quyết Ðại hội X, Ban Chấp hành Trung ương đã sớm thông qua Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Chương trình làm việc toàn khóa của Ban Chấp hành Trung ương. Quy chế làm việc đã kế thừa, phát triển quy chế làm việc của các khóa trước, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, phân định rõ hơn trách nhiệm, quyền hạn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Chương trình làm việc toàn khóa đã cụ thể hóa, triển khai thực hiện Nghị quyết Ðại hội X, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Ðảng; tập trung vào những vấn đề mới trong đường lối của Ðại hội X và được bố trí theo hướng nửa đầu nhiệm kỳ dành cho việc lãnh đạo cụ thể hóa, triển khai thực hiện nghị quyết, nửa sau nhiệm kỳ dành cho việc kiểm tra tình hình thực hiện Nghị quyết Ðại hội X và chuẩn bị Ðại hội XI. Ðồng thời đã bổ sung vào chương trình một số vấn đề lớn mới phát sinh để chủ động xử lý.
Về lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội:
Ban Chấp hành Trung ương đã tập trung vào việc cụ thể hóa, triển khai thực hiện những vấn đề mới trong đường lối phát triển kinh tế – xã hội của Ðại hội X; chọn đúng những vấn đề lớn, có tính chiến lược, đề ra chủ trương, giải pháp giải quyết đúng những vấn đề đặt ra, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, như Nghị quyết về ‘Một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới’ (WTO) nhằm thực hiện thắng lợi đường lối hội nhập kinh tế quốc tế của Ðảng trong bối cảnh có những thời cơ, thuận lợi và khó khăn thách thức mới; Nghị quyết ‘Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020’ để lãnh đạo, chỉ đạo một vấn đề liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, có ý nghĩa chiến lược lâu dài đối với đất nước; Nghị quyết về ‘Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa’ để thống nhất nhận thức, tư tưởng, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển kinh tế nhanh, bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa; Nghị quyết về ‘Nông nghiệp, nông dân và nông thôn’ để xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân.
Khi khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu tác động xấu đến tình hình kinh tế – xã hội nước ta, Ban Chấp hành Trung ương đã bổ sung chương trình làm việc, tổ chức Hội nghị Trung ương 8 để xem xét tình hình kinh tế – xã hội năm 2008, điều chỉnh mục tiêu, giải pháp, khắc phục lạm phát và ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, đưa nước ta vượt qua khó khăn, cơ bản duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, đạt tốc độ tăng trưởng khá và bảo đảm an sinh xã hội.
Nhằm tiếp tục khắc phục những bất hợp lý về quan hệ tiền lương, đồng thời đảm bảo tốt hơn đời sống của người nghèo, các đối tượng chính sách xã hội, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành kết luận về cải cách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công giai đoạn 2008 – 2012, định hướng việc nghiên cứu chuẩn bị các điều kiện để thực hiện cải cách căn bản chế độ tiền lương trong các giai đoạn tiếp theo.
Ban Chấp hành Trung ương đã xem xét, cho ý kiến về chủ trương, định hướng triển khai một số dự án đầu tư lớn, quan trọng, như các dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân, Nhà máy thủy điện Lai Châu, mở rộng địa giới hành chính Thủ đô Hà Nội, xây dựng đường sắt cao tốc Hà Nội – Thành phố Hồ Chí Minh trước khi Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định.
Về lãnh đạo quốc phòng, an ninh, đối ngoại:
Hội nghị Trung ương 9 đã kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc gắn với nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang trong tình hình mới, khẳng định những kết quả đạt được, chỉ ra những hạn chế, yếu kém, đề ra phương hướng, giải pháp tiếp tục thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong những năm tới. Một số nghị quyết khác của Ban Chấp hành Trung ương (1) và các văn kiện trình Ðại hội XI cũng đã đề ra nhiều chủ trương, quan điểm chỉ đạo quan trọng đối với lĩnh vực đối ngoại, quốc phòng, an ninh của đất nước.
Về lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng Ðảng và hệ thống chính trị:
Thực hiện chủ đề lớn của Ðại hội X về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành nhiều nghị quyết về công tác xây dựng Ðảng trong các lĩnh vực tư tưởng, tổ chức cán bộ, kiểm tra, giám sát và đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng, như: Nghị quyết ‘Về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội’ nhằm tiếp tục hoàn thiện bộ máy của hệ thống chính trị; Nghị quyết ‘Về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới’ để nâng cao chất lượng, hiệu quả của các lĩnh vực công tác quan trọng này; Nghị quyết ‘Về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Ðảng’ nhằm tạo sự chuyển biến tích cực về công tác kiểm tra, giám sát, tăng cường sự đoàn kết thống nhất, giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Ðảng; Nghị quyết ‘Về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị’ để giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Ðảng đối với Nhà nước và toàn xã hội, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội; Nghị quyết ‘Về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên’ nhằm xây dựng tổ chức cơ sở đảng, đội ngũ đảng viên trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị ở cơ sở. Từ kết quả nghiên cứu lý luận và tình hình thực tiễn, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định về đảng viên làm kinh tế tư nhân, giải quyết một vấn đề đã thảo luận qua nhiều năm, đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn.
Cùng với công tác xây dựng Ðảng, Ban Chấp hành Trung ương đã coi trọng lãnh đạo xây dựng, từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ngay sau Ðại hội X, Ban Chấp hành Trung ương đã cho ý kiến về phương hướng bầu cử, chuẩn bị nhân sự đại biểu Quốc hội, nhân sự cấp cao của Nhà nước nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII; lãnh đạo sắp xếp, kiện toàn bộ máy tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước; quyết định rút ngắn thời gian giữa Ðại hội Ðảng lần thứ XI và bầu cử Quốc hội khóa XIII; chủ trương thực hiện thí điểm việc không tổ chức hội đồng nhân dân quận, huyện, phường; đồng chí bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch Ủy ban nhân dân ở các địa phương không tổ chức hội đồng nhân dân, thí điểm chủ trương đại hội đảng bộ cơ sở trực tiếp bầu ban thường vụ, bí thư, phó bí thư, đại hội đảng bộ cấp trên cơ sở trực tiếp bầu bí thư; ban hành Nghị quyết về tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí và cải cách hành chính nhằm ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, khắc phục những phiền hà, ách tắc trong thể chế hành chính, xây dựng các cơ quan nhà nước trong sạch, vững mạnh.
Ðể củng cố, xây dựng nền tảng ngày càng vững chắc của hệ thống chính trị, Ban Chấp hành Trung ương đã ra các nghị quyết chuyên đề về xây dựng giai cấp công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức, về tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Cùng với việc khẩn trương cụ thể hóa, triển khai thực hiện Nghị quyết Ðại hội X, Ban Chấp hành Trung ương đã đôn đốc, kiểm tra, sơ kết, tổng kết tình hình thực hiện một số nghị quyết Trung ương đã ban hành từ các khóa trước (2); tại Hội nghị Trung ương 9, Ban Chấp hành Trung ương đã kiểm điểm, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Ðại hội X trong nửa đầu nhiệm kỳ và đề ra những nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà Ðại hội đề ra cho cả nhiệm kỳ.
b) Về lãnh đạo chuẩn bị Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Ðảng
Ban Chấp hành Trung ương đã sớm thành lập các tiểu ban chuẩn bị Ðại hội. Từ Hội nghị Trung ương 10 đến Hội nghị Trung ương 15, Ban Chấp hành Trung ương đã dành nhiều thời gian thảo luận, cho ý kiến về các văn kiện trình Ðại hội XI của Ðảng và phương hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khóa XI.
Việc chuẩn bị văn kiện Ðại hội đã được chỉ đạo chặt chẽ với tinh thần trách nhiệm cao và có một số đổi mới (3). Công tác giới thiệu, chuẩn bị nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khóa XI được thực hiện đúng nguyên tắc, mở rộng dân chủ trong Ðảng, đề cao tinh thần trách nhiệm của tập thể Ban Chấp hành Trung ương, từng đồng chí Ủy viên Trung ương, các cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên; tạo sự nhất trí và bảo đảm đoàn kết, thống nhất trong Ðảng.
1.2- Khuyết điểm
– Một số vấn đề lớn, quan trọng, gây bức xúc xã hội đã được nêu trong các Văn kiện Ðại hội X nhưng chưa được Ban Chấp hành Trung ương tập trung lãnh đạo, chỉ đạo để có giải pháp khắc phục, như vấn đề nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; cơ chế phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; vấn đề đại diện chủ sở hữu và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; chính sách quản lý, đền bù, thu hồi đất đai; thực hiện chủ trương xã hội hóa trong lĩnh vực y tế, giáo dục; vấn đề dân chủ và kỷ luật, kỷ cương trong Ðảng, trong xã hội; vấn đề suy giảm đạo đức xã hội…
– Một số vấn đề Ban Chấp hành Trung ương đã ra nghị quyết, nhưng chưa cân nhắc đầy đủ việc bảo đảm nguồn lực nên khi triển khai thực hiện còn nhiều vướng mắc, chậm và khó khăn (như Chiến lược biển, phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn…). Một số vấn đề Ban Chấp hành Trung ương bàn chưa kỹ, chưa có đầy đủ thông tin về những ý kiến khác nhau, chưa coi trọng việc lấy ý kiến thẩm định, góp ý của các cơ quan khoa học, các chuyên gia, nên có việc đã thông qua chủ trương nhưng khi triển khai thực hiện còn những ý kiến khác nhau, chưa tạo được sự đồng thuận cao (như việc mở rộng địa giới hành chính Thủ đô Hà Nội; việc sáp nhập một số bộ, sáp nhập một số ban đảng,…); hoặc có việc Trung ương đã có chủ trương nhưng khi Chính phủ trình ra Quốc hội lại chưa được nhất trí thông qua (như Dự án đường sắt cao tốc Bắc – Nam).
– Công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ chủ chốt của Ðảng, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ chưa được Ban Chấp hành Trung ương quan tâm đúng mức, thực hiện đầy đủ.
2- Ðối với các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Ðảng (cả chính thức và dự khuyết)
2.1- Ưu điểm: Nhìn chung, các đồng chí Ủy viên Trung ương:
– Có lập trường tư tưởng vững vàng, tinh thần trách nhiệm, tư duy đổi mới, sáng tạo; có phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần đoàn kết, tự phê bình và phê bình, đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ đường lối, quan điểm của Ðảng, chống lại các quan điểm sai trái, thù địch; chấp hành nghiêm túc sự phân công, điều động của tổ chức.
– Ða số năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, tạo được sự phát triển của ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị do mình phụ trách.
– Phong cách làm việc có đổi mới, coi trọng hơn việc phát huy dân chủ, tôn trọng tập thể, bám sát thực tiễn, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và tạo điều kiện để nhân dân tham gia xây dựng các chủ trương, quyết sách quan trọng của cấp ủy đảng, chính quyền.
2.2- Khuyết điểm
– Một số đồng chí Ủy viên Trung ương chưa chủ động đề xuất, kiến nghị giải quyết những vấn đề quan trọng, bức xúc của đất nước; chưa thật sự tích cực, chủ động, sáng tạo, chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm ở vị trí công tác được giao; chưa quan tâm đúng mức tới việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thay thế mình.
– Có đồng chí chưa thực hiện tốt nhiệm vụ được phân công, còn để công việc trì trệ, đơn vị phụ trách không hoàn thành nhiệm vụ hoặc để xảy ra một số sai phạm, tiêu cực, mất đoàn kết nội bộ; có đồng chí thiếu gương mẫu về đạo đức, lối sống hoặc để vợ, con, cấp dưới lợi dụng chức quyền thu vén lợi ích cá nhân, phải xử lý kỷ luật, gây dư luận không tốt, ảnh hưởng xấu đến uy tín của Ðảng.
II- BỘ CHÍNH TRỊ
1- Ưu điểm
1.1- Bộ Chính trị đã tập trung chỉ đạo chuẩn bị nhiều Ðề án trình Ban Chấp hành Trung ương; chủ động đề xuất với Ban Chấp hành Trung ương điều chỉnh, bổ sung chương trình làm việc, giải quyết kịp thời những vấn đề lớn của đất nước; tiếp tục có bước đổi mới trong việc nghiên cứu, quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết.
Hầu hết các đề án đã xác định trong Chương trình làm việc của Trung ương đều được Bộ Chính trị chỉ đạo chuẩn bị chặt chẽ, đúng quy trình, tiếp thu được nhiều ý kiến đóng góp; các vấn đề bổ sung, điều chỉnh được cân nhắc kỹ để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Lãnh đạo xây dựng các chương trình, đề án để cụ thể hóa, triển khai thực hiện nghị quyết Trung ương; tập trung vào những nội dung mới, lớn, quan trọng của nghị quyết; đề cao trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, của đồng chí bí thư cấp ủy trong việc tổ chức nghiên cứu, quán triệt và thực hiện nghị quyết.
1.2- Ðã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, chủ động, kịp thời có chủ trương hoặc kiến nghị Ban Chấp hành Trung ương có chủ trương, giải pháp xử lý những diễn biến mới của tình hình, cơ bản giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, duy trì được tốc độ tăng trưởng khá trong điều kiện kinh tế thế giới có nhiều biến động phức tạp, khó lường.
Trước tình hình khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, kinh tế trong nước có những diễn biến phức tạp, Bộ Chính trị đã họp nhiều phiên để thảo luận, ban hành một số kết luận quan trọng hoặc trình Ban Chấp hành Trung ương thảo luận, kịp thời đề ra các chủ trương, biện pháp để chỉ đạo Chính phủ, các cấp, các ngành tập trung điều hành quyết liệt, cơ bản giữ được ổn định kinh tế xã hội, đưa đất nước vượt qua giai đoạn khó khăn, phục hồi được tốc độ tăng trưởng.
Ðể tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, Bộ Chính trị đã ra kết luận về tình hình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp cho giai đoạn 2007 – 2010, có tính đến năm 2015; về cơ chế, chính sách ngăn ngừa thất thoát tài sản nhà nước và việc bán cổ phần cho người lao động tại doanh nghiệp cổ phần hóa; đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp có vốn nhà nước sau cổ phần hóa; kết luận bước đầu về thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế; chỉ đạo phát động cuộc vận động ‘Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam’ đạt một số kết quả.
Bộ Chính trị đã thảo luận và kết luận về định hướng chiến lược phát triển một số ngành và công trình trọng điểm, có ảnh hưởng sâu rộng, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của cả nước hoặc từng vùng (4); làm việc với ban thường vụ một số tỉnh ủy, thành ủy để cụ thể hóa và thúc đẩy việc thực hiện Nghị quyết Ðại hội X, các nghị quyết của Trung ương, Bộ Chính trị ở các đảng bộ này.
Triển khai thực hiện đường lối Ðại hội X về gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội và phát triển văn hóa, Bộ Chính trị đã dành nhiều thời gian bàn, lãnh đạo, chỉ đạo xử lý nhiều vấn đề quan trọng trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế, dân số (5), văn hóa để cụ thể hóa và thực hiện quan điểm về phát triển nguồn nhân lực, phát triển văn hóa, xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội, khắc phục những biểu hiện hình thức, lãng phí trong các hoạt động này (6).
1.3- Ðã lãnh đạo, chỉ đạo phối hợp quốc phòng, an ninh, đối ngoại chặt chẽ hơn, xử lý kịp thời, đúng đắn nhiều vấn đề quan trọng, phức tạp, nhạy cảm, góp phần quan trọng giữ vững chủ quyền, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, mở rộng quan hệ quốc tế, nâng cao vị thế của nước ta trên thế giới và khu vực, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển đất nước.
Về quốc phòng, an ninh: Bộ Chính trị đã thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh trong tình hình mới; quan tâm đầu tư tăng cường tiềm lực, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang; ban hành nghị quyết về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc; ra các chỉ thị về tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác giáo dục quốc phòng, công tác bảo đảm an ninh quốc gia trong tình hình mới, về sự lãnh đạo của Ðảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật. Chỉ đạo chủ động ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch chống phá nước ta, không để xảy ra đột xuất, bất ngờ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
Ðã ban hành Quy định về tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân và Công an nhân dân; Nghị quyết về điều chỉnh tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam đến năm 2015, về điều chỉnh tổ chức bộ máy lực lượng Công an nhân dân; Chỉ thị về tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Chỉ đạo sơ kết việc thực hiện Kết luận số 38-KL/TW và Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) về tăng cường lãnh đạo bảo đảm an ninh quốc gia trong tình hình mới; kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở một số vùng trọng điểm. Chỉ đạo việc ban hành bổ sung một số chính sách đối với người tham gia quân đội, công an, thanh niên xung phong và người tham gia kháng chiến.
Về đối ngoại: Ðã tập trung chỉ đạo đồng bộ việc triển khai thực hiện đường lối đối ngoại do Ðại hội X đề ra, đưa các quan hệ song phương, đa phương, các hoạt động đối ngoại của Ðảng, Nhà nước, đối ngoại nhân dân đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả hơn; chỉ đạo đẩy mạnh quan hệ giữa Ðảng ta với các đảng cộng sản và một số đảng cầm quyền trên thế giới; xây dựng chiến lược quan hệ với các nước láng giềng, một số nước lớn, xây dựng và phát triển quan hệ với một số đối tác; tăng cường quan hệ với một số tổ chức quốc tế, khu vực; thúc đẩy thực hiện các thỏa thuận hợp tác kinh tế với một số nước châu Phi và Trung Ðông.
Có chủ trương giải quyết kịp thời nhiều vấn đề trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền trên Biển Ðông. Xử lý đúng đắn, kịp thời những vấn đề đối ngoại nhạy cảm, nhất là trong quan hệ với các nước lớn. Chỉ đạo hoàn thành việc phân giới cắm mốc và ký Nghị định thư về quản lý biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc; đẩy nhanh tiến độ tôn tạo, tăng dầy mốc giới với Lào và phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền với Cam-pu-chia.
Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đàm phán, vận động để nước ta trở thành thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 – 2009; chủ trì đăng cai tổ chức tốt một số hội nghị quốc tế lớn; phát huy vai trò của Việt Nam tại các diễn đàn đa phương; đóng góp tích cực vào việc thúc đẩy thực hiện Hiến chương ASEAN, đảm nhận tốt vai trò Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch AIPA năm 2010; tiếp tục nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế. Ðã sửa đổi, bổ sung quy chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại, xác định cơ chế phối hợp nhằm bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, thống nhất giữa đối ngoại Ðảng, Nhà nước và nhân dân. Tiếp tục chỉ đạo thực hiện tốt Nghị quyết 36-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác người Việt Nam ở nước ngoài.
1.4- Coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân vận, dân tộc, tôn giáo, phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân.
Ban hành Quy chế về công tác dân vận của hệ thống chính trị, Nghị quyết về công tác phụ nữ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; một số chủ trương, chính sách mới về công tác dân tộc, tôn giáo. Lãnh đạo xử lý kịp thời những vấn đề phức tạp về dân tộc, tôn giáo; chỉ đạo tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, về công tác dân tộc, công tác tôn giáo; tổ chức Ðại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội và Ðại hội các dân tộc thiểu số đạt kết quả tốt.
Làm việc với Ðảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; chỉ đạo xây dựng một số đề án để đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội.
1.5- Thường xuyên chăm lo việc lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Bộ Chính trị đã làm việc với Ðảng đoàn Quốc hội, chỉ đạo việc tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội; lãnh đạo các hoạt động lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và hoạt động giám sát của Quốc hội. Chỉ đạo chuẩn bị và trình Ban Chấp hành Trung ương cho ý kiến về một số vấn đề thuộc thẩm quyền Trung ương trước khi Chính phủ trình Quốc hội.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị, Bộ Chính trị đã ban hành Quy chế làm việc của Ðảng đoàn Quốc hội và một số quy chế về quan hệ làm việc giữa tổ chức đảng với các cơ quan nhà nước thuộc Quốc hội, Chính phủ (7); chỉ đạo triển khai, sơ kết việc thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân quận, huyện, phường để rút kinh nghiệm.
Ðã chỉ đạo sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Nghị quyết 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng, hoàn thiện pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; báo cáo Ban Chấp hành Trung ương kết quả 3 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về phòng, chống tham nhũng, lãng phí; cho ý kiến chỉ đạo về Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 và chủ trương phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng.
1.6- Bộ Chính trị đã dành nhiều thời gian, công sức tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng Ðảng, đạt được một số kết quả, tạo chuyển biến tích cực.
Tập trung chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí đạt được một số tiến bộ; công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn được chú trọng phục vụ việc bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991 và chuẩn bị các Văn kiện Ðại hội XI của Ðảng; chỉ đạo công tác tuyên truyền, nhất là về các vấn đề nhạy cảm, phức tạp; chỉ đạo Cuộc vận động ‘Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh’ và kỷ niệm 40 năm thực hiện Di chúc của Bác, tạo được sự chuyển biến bước đầu trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của nhiều cán bộ, đảng viên; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, tạo chuyển biến tích cực trong hoạt động báo chí, công tác thông tin đối ngoại, đấu tranh phản bác các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo chống phá Ðảng và Nhà nước ta.
Công tác tổ chức, cán bộ được quan tâm lãnh đạo, có đổi mới, đạt một số kết quả. Ban hành quy định hướng dẫn thi hành Ðiều lệ Ðảng, quyết định về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan đảng, đảng ủy khối, các Ban Chỉ đạo của Trung ương. Chỉ đạo xây dựng nhiều quy chế, quy định về quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo giữa Bộ Chính trị, Ban Bí thư với các đảng đoàn, ban cán sự đảng, các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương; giữa các đảng đoàn, ban cán sự đảng, đảng ủy với lãnh đạo cơ quan, đơn vị. Sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng, ban hành một số quy chế, quy định quan trọng về công tác tổ chức cán bộ (8). Chỉ đạo đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân chuyển, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Bổ sung một số chính sách đối với cán bộ lão thành cách mạng, cán bộ tiền khởi nghĩa đã hy sinh, từ trần và xét tặng huân chương bậc cao…
Ðã sớm ban hành Chỉ thị 37-CT/TW về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Ðảng; chỉ đạo chặt chẽ, kịp thời công tác chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng từ cấp cơ sở đến các tỉnh, thành phố và đảng bộ trực thuộc Trung ương đạt kết quả tốt.
Công tác kiểm tra, giám sát được coi trọng; thông qua Chiến lược về công tác kiểm tra, giám sát của Ðảng đến năm 2020; chỉ đạo nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi hoặc ban hành mới nhiều quy chế, quy định về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng (9); bổ sung thẩm quyền thi hành kỷ luật của Ủy ban Kiểm tra Trung ương theo quy định của Ðiều lệ Ðảng; chỉ đạo tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Ðảng; sớm thông qua chương trình và thực hiện nghiêm túc chương trình kiểm tra của Bộ Chính trị, Ban Bí thư hằng năm; nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, phát hiện, xử lý nhiều sai phạm của tập thể và cá nhân, góp phần tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Ðảng.
2- Khuyết điểm
2.1- Trong lĩnh vực kinh tế – xã hội, việc lãnh đạo, chỉ đạo khắc phục một số mặt hạn chế, yếu kém của nền kinh tế, một số thiếu sót, khuyết điểm trong quản lý kinh tế – xã hội còn chậm, hiệu quả thấp
Lãnh đạo, chỉ đạo công tác nghiên cứu, dự báo, cảnh báo, công tác xây dựng và quản lý quy hoạch chưa tốt. Tình trạng nhập siêu, bội chi ngân sách còn lớn, kéo dài nhiều năm; nợ nước ngoài của Chính phủ và quốc gia tăng nhanh, ảnh hưởng đến ổn định kinh tế vĩ mô; nguy cơ tái lạm phát còn cao; chất lượng, hiệu quả sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp; đầu tư dàn trải, còn nhiều thất thoát, kém hiệu quả. Kết quả đổi mới, nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước còn nhiều hạn chế; cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn để thất thoát tài sản nhà nước; quản lý hoạt động các doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước còn nhiều yếu kém. Kết quả hoạt động của một số tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, nguồn lực đầu tư của Nhà nước; có tập đoàn rơi vào tình trạng phá sản, gây tổn thất lớn về kinh tế, làm bức xúc xã hội. Chưa quan tâm đúng mức đến việc củng cố, phát triển kinh tế tập thể, để lĩnh vực này có nhiều yếu kém kéo dài. Quản lý hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có mặt còn bất cập. Chính sách tiền lương còn nhiều bất hợp lý, gây khó khăn, tâm tư cho một bộ phận cán bộ, công chức. Việc chỉ đạo tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện một số chủ trương lớn về củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống tài chính, ngân hàng còn chậm…; quản lý đất đai, thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán còn lúng túng, hiệu quả thấp; quản lý đô thị, nhất là quy hoạch và sử dụng đất chưa được quan tâm đúng mức. Quản lý đất nông nghiệp, nhất là đất trồng lúa, đất đô thị, rừng và đất rừng, tài nguyên khoáng sản còn nhiều yếu kém; tình trạng khai thác, sử dụng các loại tài nguyên thiếu quy hoạch, lãng phí lớn, chậm được khắc phục. Ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng hơn ở nhiều lĩnh vực, nhiều địa phương, nhưng kết quả chỉ đạo xử lý còn rất hạn chế. Việc chỉ đạo nghiên cứu, xây dựng chương trình, kế hoạch ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu còn chậm trước sự biết đổi hết sức nhanh chóng của tình hình.
Kết quả việc thực hiện chủ trương kết hợp tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội còn hạn chế. Một số yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục – đào tạo, y tế, khoa học – công nghệ, quản lý nhà nước về văn hóa, xuất bản, dịch vụ công; tình trạng môi trường văn hóa xuống cấp, suy thoái về đạo đức, lối sống; phân hóa giàu nghèo tăng, tội phạm hình sự, các tệ nạn xã hội có xu hướng phát triển… nhưng chưa có đủ các giải pháp để khắc phục có hiệu quả. Kết quả giảm nghèo chưa bền vững; số hộ cận nghèo và tình trạng tái nghèo còn cao. Tình trạng khiếu kiện đông người, vượt cấp của nhân dân, đình công của công nhân, ùn tắc giao thông, ngập nước ở các thành phố lớn và tai nạn giao thông nghiêm trọng chưa được giải quyết căn bản.
2.2- Về quốc phòng, an ninh, đối ngoại
Lãnh đạo việc kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh, quốc phòng, an ninh với kinh tế trong một số việc chưa chặt chẽ. Kết quả chỉ đạo xử lý một số vấn đề tiềm ẩn gây mất ổn định kinh tế, chính trị, xã hội còn hạn chế. Nhiều hoạt động đối ngoại, nhất là của các ngành, các địa phương còn chồng chéo, hiệu quả thấp, chậm được chấn chỉnh. Một số thỏa thuận quốc tế triển khai thực hiện chậm.
2.3- Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, công tác dân vận, dân tộc, tôn giáo
Một số nội dung của Nghị quyết Ðại hội X về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, về mặt trận và các đoàn thể nhân dân chưa được cụ thể hóa để thống nhất nhận thức và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện; lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị – xã hội hiệu quả chưa cao; hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể trên một số mặt còn hành chính hóa. Chỉ đạo giải quyết một số vấn đề trong công tác dân tộc, tôn giáo chưa đồng bộ, kịp thời; việc xây dựng, củng cố hệ thống chính trị, xây dựng lực lượng nòng cốt ở cơ sở, xây dựng tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước kết quả đạt được còn thấp.
2.4- Về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Kết quả nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa còn hạn chế. Sắp xếp, kiện toàn bộ máy tổ chức một số cơ quan nhà nước chưa đạt được yêu cầu tinh gọn. Cải cách hành chính có chuyển biến nhưng còn chậm, còn gây khó khăn cho phát triển kinh tế – xã hội và đời sống nhân dân. Phân cấp quản lý chưa đi đôi với nâng cao chất lượng quy hoạch và tăng cường kiểm tra, giám sát dẫn đến đầu tư phân tán, trùng lặp, lãng phí trong khai thác tài nguyên.
Kết quả lãnh đạo cải cách tư pháp trên một số mặt còn hạn chế; một số vấn đề bức xúc trong lĩnh vực tư pháp chậm được giải quyết. Công tác phòng, chống tham nhũng đạt được một số kết quả nhưng vẫn chưa đạt được yêu cầu đề ra; chưa ngăn chặn, đẩy lùi, khắc phục được cơ bản tình trạng tham nhũng, lãng phí, gây bức xúc trong xã hội. Lãnh đạo xử lý sai phạm sau thanh tra, kiểm tra, điều tra ở một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, một số doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác chưa kịp thời.
2.5- Lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng Ðảng trên một số mặt hiệu quả chưa cao, chuyển biến chậm, chưa đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới
Kết quả chỉ đạo nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn còn hạn chế, giải đáp chưa có sức thuyết phục nhiều vấn đề lớn do thực tiễn phát triển của đất nước đặt ra. Tính chiến đấu, tính thuyết phục, chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng còn hạn chế. Việc thực hiện Cuộc vận động ‘Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh’ có nơi, có lúc còn mang tính hình thức; kết quả đạt được chưa đều. Việc giáo dục đạo đức, lý tưởng trong học sinh, sinh viên chưa được coi trọng đúng mức. Lãnh đạo, chỉ đạo khắc phục những hạn chế, yếu kém trong hoạt động báo chí, xuất bản đạt được một số kết quả, nhưng chưa cơ bản, chưa đồng bộ. Thiếu sắc bén trong cuộc đấu tranh chống ‘diễn biến hòa bình’ của các thế lực thù địch.
Chưa chú ý đúng mức việc chỉ đạo tăng cường đào tạo, thực hiện chính sách, bổ sung đội ngũ cán bộ, chuyên gia để nâng cao chất lượng các cơ quan tham mưu của Ðảng; việc tổ chức đảng theo ngành dọc của các tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước chưa gắn thật chặt chẽ với cấp ủy địa phương, cần phải tiếp tục nghiên cứu, điều chỉnh. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, điều động, bổ nhiệm, luân chuyển và quản lý cán bộ vẫn còn những hạn chế, yếu kém. Trong một số trường hợp, việc quản lý cán bộ không sâu sát, chưa bảo đảm đánh giá đúng cán bộ. Trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ chậm được ban hành. Phân cấp trong công tác cán bộ vẫn chưa đủ mạnh, vẫn chưa đủ rõ thẩm quyền giám sát, đánh giá cán bộ; quy trình bổ nhiệm có mặt chưa hợp lý. Chưa xây dựng được quy hoạch các chức danh lãnh đạo chủ chốt Ðảng,
Nhà nước khóa XI; chưa quan tâm đào tạo, tạo điều kiện cho các đồng chí Ủy viên Trung ương dự khuyết trưởng thành. Công tác cán bộ nữ được quan tâm nhưng kết quả đạt được chưa cao. Chủ trương kéo dài tuổi làm việc cán bộ nữ từ thứ trưởng và tương đương trở lên là cần thiết, nhưng chưa kịp thời thể chế hóa về mặt nhà nước trước khi thực hiện. Kết quả chỉ đạo việc nâng cao chất lượng sinh hoạt, tự phê bình và phê bình, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng còn hạn chế; nhiều cán bộ, tổ chức cơ sở đảng yếu, chưa làm tốt vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị, chậm phát hiện, ngăn ngừa sai phạm của lãnh đạo cơ quan, đơn vị. Việc chỉ đạo xây dựng tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước còn chậm. Thực hiện chính sách tiền lương, nhà đất của cán bộ chưa thống nhất trong cả hệ thống chính trị.
Công tác giám sát trong Ðảng là vấn đề mới, nhưng hướng dẫn chưa đủ rõ, gây lúng túng trong thực hiện, chất lượng, hiệu quả chưa cao; chưa kịp thời phát hiện sai phạm để khắc phục nên một số cán bộ các cấp vi phạm phải xử lý kỷ luật (trong đó có cả cán bộ do Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý). Việc tự rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức, nêu gương của một số cán bộ các cấp còn nhiều yếu kém, gây tổn hại đến uy tín và thanh danh của Ðảng. Việc điều chỉnh, hướng dẫn vận dụng độ tuổi tái cử cấp ủy cho một số trường hợp còn chậm, có điểm không nhất quán với Chỉ thị 37-CT/TW, gây khó khăn cho việc chuẩn bị nhân sự ở một số địa phương, gây tâm tư, thắc mắc trong một số cán bộ. Việc thực hiện phương án nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khóa XI có một số thiếu sót, khuyết điểm.
III- BAN BÍ THƯ
1- Ưu điểm
1.1- Ban Bí thư đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng Ðảng, giải quyết kịp thời nhiều công việc thường xuyên, đột xuất hằng ngày của Ðảng
Ðã tập trung chỉ đạo việc nghiên cứu quán triệt, tổ chức thực hiện Nghị quyết Ðại hội X, các nghị quyết, kết luận của Trung ương và Bộ Chính trị; chỉ đạo, cải tiến, nâng cao chất lượng các hoạt động tuyên truyền và tổ chức các hoạt động kỷ niệm các sự kiện lớn, các ngày lễ lớn của đất nước, đại hội đảng các cấp tiến tới Ðại hội XI của Ðảng; chỉ đạo, định hướng hoạt động, chấn chỉnh sai phạm của các cơ quan báo chí, xuất bản; đẩy mạnh hoạt động thông tin đối ngoại, đấu tranh bác bỏ các luận điệu vu cáo, xuyên tạc chống phá Ðảng và Nhà nước.
Ban hành Quy định về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức hoạt động của các loại hình tổ chức đảng, các cơ quan tham mưu, giúp việc của Trung ương, các tỉnh ủy, thành ủy, tạo sự thống nhất về tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan này; chỉ đạo tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với các hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp; chỉ đạo sắp xếp, bố trí cán bộ thuộc diện Ban Bí thư quản lý, nâng cao chất lượng đào tạo của Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, các trường chính trị tỉnh, trung tâm chính trị huyện, thực hiện chính sách đối với cán bộ, với người và gia đình người có công.
Ðã chỉ đạo xây dựng nhiều quy chế, chế độ, quan hệ công tác giữa các cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và trong nội bộ Ðảng (10); tăng cường công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết để đôn đốc, thúc đẩy việc thực hiện nghị quyết và bổ sung những chủ trương cần thiết (11). Ðã quan tâm chỉ đạo nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng; xây dựng và tổ chức thực hiện tốt chương trình kiểm tra hằng năm của Ban Bí thư; tập trung kiểm tra việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trên nhiều lĩnh vực. Ra kết luận về luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các ngành, các cấp về làm công tác kiểm tra, giám sát và luân chuyển lãnh đạo ủy ban kiểm tra các cấp sang công tác ở các ngành, các cấp để đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn cán bộ kiểm tra; kết luận về tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến công tác kiểm tra, giám sát của Ðảng…
Duy trì thường xuyên, có cải tiến các buổi giao ban của Thường trực Ban Bí thư với các ban đảng, các văn phòng, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội ở Trung ương. Chỉ đạo giải quyết, xử lý kịp thời nhiều công việc hằng ngày của Ðảng, các ý kiến đề nghị của các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương.
1.2- Về chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ về quốc phòng, an ninh và đối ngoại
Ðã chỉ đạo tổ chức tốt việc quán triệt, triển khai thực hiện và sơ kết, tổng kết một số chỉ thị, kết luận quan trọng của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về quốc phòng, an ninh và đối ngoại; ban hành quy định về cơ quan chính trị trong Quân đội phù hợp với chế độ chính ủy, chính trị viên; quy định về một số loại hình tổ chức đảng trong Quân đội, Công an. Chỉ đạo thực hiện một số thỏa thuận với bạn Lào và Cam-pu-chia, xây dựng tuyến biên giới hòa bình, ổn định, phát triển…
Chỉ đạo xử lý kịp thời những vấn đề thường xuyên và đột xuất về đối ngoại thuộc thẩm quyền Ban Bí thư; ban hành Chỉ thị 41-CT/TW về tăng cường công tác ngoại giao kinh tế, đưa ngoại giao kinh tế thành một trong những ưu tiên hàng đầu của công tác ngoại giao; chỉ đạo các đoàn thể tham gia một số tổ chức quốc tế và đăng cai nhiều hoạt động của các tổ chức quốc tế tại Việt Nam; chỉ đạo tổng kết Chỉ thị 57-CT/TW của Ban Bí thư (khóa VII) về hợp tác với nước ngoài về pháp luật, cải cách hành chính và ban hành chỉ thị mới về vấn đề này; chỉ đạo sơ kết việc thực hiện Chỉ thị 19-CT/TW của Ban Bí thư (khóa IX) về công tác phi chính phủ nước ngoài, thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trên thế giới. Chỉ đạo tổ chức Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài lần thứ nhất, được dư luận trong và ngoài nước đánh giá tốt…
1.3- Chỉ đạo công tác dân vận, đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể quần chúng
Ðã chỉ đạo tổng kết nhiều nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư các khóa trước về công tác dân vận (12). Chỉ đạo xử lý có hiệu quả một số vấn đề về tôn giáo, dân tộc ở các địa bàn trọng điểm.
Chỉ đạo tốt việc tổ chức đại hội nhiệm kỳ của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và các hội quần chúng (13).
1.4- Về kinh tế – xã hội
Ðã chỉ đạo kiểm tra, sơ kết tình hình thực hiện một số nghị quyết về kinh tế – xã hội; chỉ đạo thực hiện Chương trình thí điểm xây dựng mô hình nông thôn mới để thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; ban hành một số chỉ thị về tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng trong các lĩnh vực y tế, lao động, về quản lý tài chính, tài sản và chế độ chi tiêu trong các cơ quan đảng ở Trung ương và địa phương.
2- Khuyết điểm
– Chỉ đạo lĩnh vực báo chí, xuất bản, văn học, nghệ thuật đạt được một số chuyển biến tích cực nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn; chỉ đạo đấu tranh với các luận điệu sai trái chống phá Ðảng và Nhà nước ta và tuyên truyền, giải thích về một số vấn đề lớn, nhạy cảm còn có ý kiến khác nhau trong Ðảng, trong nhân dân chưa chủ động, kịp thời.
– Chỉ đạo xây dựng và ban hành nhiều quy định, quy chế phối hợp quan hệ công tác giữa các cơ quan, đơn vị nhưng việc tổ chức thực hiện còn hạn chế. Chậm chỉ đạo nghiên cứu một cách tổng thể, thống nhất các chế độ, chính sách chung cho cán bộ trong cả hệ thống chính trị, nhất là chính sách khuyến khích, thu hút cán bộ giỏi về công tác ở các cơ quan đảng, đoàn thể, cán bộ chuyên trách công tác đảng các cơ quan, doanh nghiệp và cơ sở. Chỉ đạo việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên, thực hiện tự phê bình và phê bình hằng năm chưa thật sự đổi mới, nhiều nơi vẫn còn hình thức. Một số nghị quyết, chỉ thị chậm được kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết. Chỉ đạo kiểm tra dấu hiệu vi phạm trong một số trường hợp chưa kịp thời.
– Chỉ đạo công tác dân vận, dân tộc, tôn giáo có lúc, có nơi, có việc còn lúng túng, sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng ở Trung ương và địa phương chưa thật chặt chẽ. Việc chỉ đạo các cơ quan chức năng cụ thể hóa nội dung các nghị quyết Trung ương liên quan đến thúc đẩy hoạt động của các đoàn thể còn chậm.
B- KIỂM ÐIỂM VỀ ÐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ÐẠO, PHONG CÁCH VÀ LỀ LỐI LÀM VIỆC
I- BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
1- Ưu điểm
Ban Chấp hành Trung ương đã hoạt động theo đúng Quy chế, Chương trình làm việc toàn khóa; đồng thời, kịp thời điều chỉnh, bổ sung chương trình phù hợp với tình hình thực tế. Ban Chấp hành Trung ương đoàn kết, thống nhất, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Coi trọng việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng theo hướng bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của Ðảng đối với Nhà nước, đồng thời phát huy vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước, không bao biện, làm thay.
Ðã có đổi mới trong phát huy trí tuệ của các đồng chí Ủy viên Trung ương tham gia vào việc chuẩn bị các đề án trình Trung ương, tổng kết lý luận – thực tiễn 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991 của Ðảng và chuẩn bị các văn kiện Ðại hội XI.
2- Khuyết điểm
Nhìn chung, những đổi mới của Ban Chấp hành Trung ương về phương thức lãnh đạo, phong cách và lề lối làm việc trên thực tế còn chưa được nhiều. Các hội nghị Trung ương chưa có nhiều cải tiến về tổ chức điều hành. Trung ương ban hành nhiều nghị quyết trong một hội nghị nên các cấp, nhất là cấp cơ sở gặp khó khăn trong học tập, quán triệt và triển khai thực hiện. Việc chỉ đạo cụ thể hóa và tổ chức thực hiện nhìn chung còn yếu, nhiều nghị quyết có nội dung tốt, nhưng kết quả thực hiện còn hạn chế, chậm đi vào cuộc sống.
Mặc dù có đổi mới, nhưng vẫn chưa có nhiều cách thức để phát huy dân chủ, trí tuệ và nâng cao trách nhiệm của các đồng chí Ủy viên Trung ương Ðảng đóng góp vào các quyết định quan trọng của Ðảng, của đất nước. Chưa thực hiện được quy định về chất vấn trong các kỳ họp Ban Chấp hành Trung ương theo quy chế làm việc đã ban hành.
II- BỘ CHÍNH TRỊ, BAN BÍ THƯ
1- Ưu điểm
Bộ Chính trị, Ban Bí thư sinh hoạt dân chủ; hoạt động đúng theo quy chế, giải quyết công việc đúng thẩm quyền, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, đồng thời tiếp tục phát huy tốt hơn vai trò, trách nhiệm cá nhân trong phạm vi nhiệm vụ được phân công. Việc phân công, phân cấp xử lý công việc giữa Bộ Chính trị và Ban Bí thư, giữa tập thể và các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Ðảng phụ trách từng lĩnh vực rõ ràng, cụ thể hơn; phát huy tốt hơn vai trò lãnh đạo của Ðảng, sự chủ động trong quản lý, điều hành của Nhà nước, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư cơ bản hoạt động theo đúng chương trình làm việc hằng năm, hằng quý, hằng tuần, đồng thời có điều chỉnh, bổ sung một số vấn đề quan trọng mới nảy sinh để phù hợp với diễn biến tình hình trong và ngoài nước. Quan tâm sơ kết, tổng kết các nghị quyết, chỉ thị đã ban hành. Nhìn chung, hoạt động của Bộ Chính trị, Ban Bí thư bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Ðảng đối với các lĩnh vực, đồng thời có trọng tâm, trọng điểm.
Phương pháp công tác, lề lối làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư tiếp tục có đổi mới, quy định rõ hơn mối quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư với Ðảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ, với Chủ tịch nước và các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương; cải tiến cách ra nghị quyết, chỉ thị và việc nghiên cứu, quán triệt, tổ chức thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Ðảng.
Các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã dành nhiều thời gian đi nghiên cứu, nắm tình hình các địa phương, cơ quan Trung ương, chỉ đạo giải quyết những khó khăn, vướng mắc phát sinh theo chức năng, nhiệm vụ được phân công và làm việc trực tiếp nhiều hơn với các ban đảng, ban cán sự đảng, cấp ủy đảng trực thuộc Trung ương.
Các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư có bản lĩnh vững vàng, gương mẫu giữ gìn đạo đức, lối sống, tác phong làm việc cẩn trọng, sống giản dị, chân thành, đề cao tinh thần trách nhiệm trong tham gia lãnh đạo tập thể, đồng thời chủ động thực hiện tốt các nhiệm vụ được phân công.
2- Khuyết điểm
Trong Quy chế làm việc, vai trò lãnh đạo tập thể được thể hiện rõ, nhưng trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu, trong một số lĩnh vực chưa rõ, nên vẫn còn một số công việc chậm được giải quyết. Cơ chế phối hợp và phân cấp trong giải quyết một số vấn đề quan trọng, nhạy cảm về an ninh, quốc phòng, đối ngoại, tôn giáo, tư tưởng – văn hóa… chưa được cụ thể hóa để bảo đảm chủ động xử lý đúng đắn, kịp thời một số vấn đề cụ thể. Tự phê bình và phê bình trong Bộ Chính trị và Ban Bí thư có mặt còn hạn chế.
Việc thảo luận chủ trương về một số dự án lớn chưa kỹ, chưa coi trọng việc lấy ý kiến các cơ quan nghiên cứu, các chuyên gia, khi trình ra Quốc hội chưa được sự đồng thuận, nhất trí, thậm chí có dự án không được thông qua. Một số vấn đề trong chương trình làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư chưa thực hiện được theo đúng tiến độ, hoặc một số vấn đề chưa dự kiến hết, phải bổ sung.
Tóm lại, nhiệm kỳ qua, tình hình trong nước và quốc tế có những diễn biến phức tạp, khó lường, bên cạnh những thời cơ và thuận lợi, đất nước ta cũng gặp nhiều khó khăn, nhất là chịu ảnh hưởng nặng nề của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn Ðảng, toàn dân tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sớm cụ thể hóa nhiều nội dung quan trọng trong Nghị quyết Ðại hội X của Ðảng; kịp thời đưa ra những quyết sách phù hợp, giải quyết có kết quả nhiều vấn đề phức tạp về kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, tăng cường công tác xây dựng Ðảng và hệ thống chính trị; cơ bản giữ được ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội; nền kinh tế tiếp tục đạt được mức tăng trưởng khá, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện; quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, hoạt động của chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng có chuyển biến tiến bộ.
Ðạt được những kết quả trên có nguyên nhân quan trọng là do Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư kiên định, vững vàng về bản lĩnh chính trị, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, đoàn kết, thống nhất, nêu cao tinh thần trách nhiệm, làm việc theo chương trình và quy chế hoạt động, nhạy bén trước những diễn biến mới của tình hình.
Tuy nhiên, trong lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư còn một số mặt thiếu sót, khuyết điểm: Công tác nghiên cứu, dự báo, cảnh báo có mặt còn yếu; kết quả lãnh đạo, chỉ đạo việc khắc phục những yếu kém trong quản lý kinh tế – xã hội còn chậm; nền kinh tế còn tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định, chất lượng và hiệu quả tăng trưởng thấp; các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học – công nghệ, y tế, văn hóa còn nhiều yếu kém; công tác xóa đói, giảm nghèo chưa vững chắc, đời sống của nhân dân ở vùng cao, vùng sâu, vùng bị thiên tai chậm được cải thiện, khoảng cách giàu nghèo chưa được thu hẹp; kết quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí và cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu đã đề ra. Lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng Ðảng và hệ thống chính trị trên một số mặt kết quả đạt được chưa đáp ứng yêu cầu của Ðảng và đất nước trước tình hình mới.
Những thiếu sót, khuyết điểm trên có nguyên nhân do việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng, đổi mới tổ chức và phong cách làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư còn hạn chế; việc đôn đốc, kiểm tra, chỉ đạo thực hiện chưa tập trung, quyết liệt; trách nhiệm cá nhân trên một số lĩnh vực chưa rõ…
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư xin nghiêm túc tự phê bình trước toàn Ðảng về những khuyết điểm, thiếu sót nói trên.
Từ công tác lãnh đạo trong nhiệm kỳ Ðại hội X, có thể rút ra một số kinh nghiệm:
(1) Chương trình, kế hoạch làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư phải bám sát Cương lĩnh, Nghị quyết Ðại hội X, Quy chế làm việc và các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương; đồng thời bám sát tình hình thực tiễn, nhạy bén phát hiện những vấn đề lớn, quan trọng mới phát sinh, kịp thời bổ sung, điều chỉnh chương trình làm việc để giải quyết kịp thời, giữ vững sự ổn định, phát triển của đất nước. Lãnh đạo toàn diện, đồng thời có trọng tâm, trọng điểm; thực hiện đúng các quy định về việc chuẩn bị đề án để nâng cao hơn nữa chất lượng chuẩn bị, thảo luận và ra quyết định của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
(2) Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, sự phát triển mạnh mẽ của thông tin và khoa học công nghệ, cần phải đẩy mạnh đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng để giữ vững, nâng cao vai trò lãnh đạo của Ðảng, đồng thời, phát huy tính năng động, sáng tạo, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể; cần tiếp tục cụ thể hóa, quy chế hóa tối đa các mối quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo, quan hệ phối hợp công tác giữa các cấp ủy, tổ chức đảng trong các tổ chức của hệ thống chính trị; đẩy mạnh cải cách hành chính trong Ðảng và hệ thống chính trị.
(3) Thực hiện đầy đủ, đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ, đấu tranh tự phê bình và phê bình trong tổ chức, hoạt động của các cấp ủy, tổ chức đảng, luôn luôn giữ gìn và tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Ðảng làm hạt nhân đoàn kết trong các tổ chức của hệ thống chính trị và toàn xã hội. Phát huy dân chủ, lắng nghe được nhiều ý kiến, tập hợp được trí tuệ của các thành viên cấp ủy, cán bộ, đảng viên; đồng thời tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Ðảng, giữa cấp trên với cấp dưới, Trung ương với địa phương, kỷ luật, kỷ cương trong tổ chức thực hiện chỉ thị, nghị quyết, quyết định của Ðảng; giữ vững sự lãnh đạo của tập thể cấp ủy về những vấn đề lớn, quan trọng, đồng thời nâng cao quyền hạn, trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Các cấp ủy, tổ chức đảng cần quan tâm hơn nữa đến công tác cán bộ, từ đánh giá, quy hoạch, đào tạo, luân chuyển, bổ nhiệm, thực hiện chính sách cán bộ và công tác kiểm tra, giám sát để ngăn ngừa, xử lý kịp thời các sai phạm.
Ban Chấp hành Trung ương khóa X tin tưởng chắc chắn rằng, những ưu điểm, kinh nghiệm trong nhiệm kỳ qua sẽ được Ban Chấp hành Trung ương khóa XI kế thừa và phát triển, đồng thời cũng sẽ khắc phục được những khuyết điểm, yếu kém để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ban Chấp hành Trung ương, tiếp tục lãnh đạo đưa sự nghiệp đổi mới đất nước vững bước tiến lên trong những năm tới, xứng đáng với sự tin cậy và giao phó của toàn Ðảng, toàn dân ta.
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG KHÓA X
———————————————
(1) ‘Về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới’, ‘Về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020’.
(2) Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) về Chiến lược công tác cán bộ, ra kết luận tiếp tục thực hiện Chiến lược cán bộ đến năm 2020; Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới…
(3) Không trình Ðại hội các báo cáo riêng về kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2011 – 2015 và báo cáo về công tác xây dựng Ðảng. Kiến nghị Ðại hội không ra Nghị quyết thông qua toàn văn Báo cáo chính trị mà sẽ thông qua Nghị quyết về những nội dung chính của Báo cáo chính trị.
(4) Ðề án an ninh lương thực quốc gia đến năm 2020; Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2020; Chiến lược phát triển giao thông vận tải đường sắt Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050; Dự án Liên hợp lọc hóa dầu Nghi Sơn; hợp tác phát triển ‘Hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt Nam – Trung Quốc’…
(5) Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) về khoa học, công nghệ; ra Kết luận về đổi mới cơ chế tài chính của giáo dục và đào tạo giai đoạn 2008 – 2012; ra Chỉ thị về tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập; đổi mới cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công lập; sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết 46-NQ/TW, 47-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) về công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân, về chính sách dân số – kế hoạch hóa gia đình…
(6) Như: ban hành Nghị quyết 23-NQ/TW về văn học nghệ thuật; Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020; về xây dựng và phát triển văn học nghệ thuật trong tình hình mới; phương án bảo tồn, phát huy giá trị Khu di tích Hoàng thành Thăng Long; Ðề án tổng thể các hình thức lưu niệm, tưởng niệm danh nhân; kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội; về việc cưới, tang, lễ hội và vấn đề tâm linh, ngoại cảm; về đổi mới, nâng cao hiệu quả tổ chức các ngày kỷ niệm, các nghi thức trao tặng, đón nhận danh hiệu vinh dự nhà nước và các hình thức khen thưởng cao…; ban hành Chỉ thị về tổ chức kỷ niệm các ngày lễ lớn trong 2 năm 2009 – 2010 để các hoạt động kỷ niệm được tổ chức tốt, có ý nghĩa thiết thực, trang trọng và tiết kiệm.
(7) Quy chế về quan hệ công tác giữa Ðảng đoàn Quốc hội với Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, với tổ đảng của các đoàn đại biểu Quốc hội, các ban Trung ương Ðảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy, tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương; Quy chế về quan hệ công tác giữa Ban cán sự đảng Chính phủ với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, với các đảng đoàn, ban cán sự đảng, đảng ủy, tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương.
(8) Quy chế bầu cử trong Ðảng; Quy định thôi giữ chức, miễn nhiệm và từ chức của cán bộ; Quy chế đánh giá cán bộ; tăng cường phân cấp quản lý cán bộ; đổi mới quy trình bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ ứng cử vào các chức vụ lãnh đạo theo hướng rút ngắn thời gian, quy trình, thủ tục.
(9) Quy định về thi hành Ðiều lệ Ðảng; quy trình xem xét, thi hành kỷ luật và giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; sửa đổi, bổ sung quy định về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình; quy định về những điều đảng viên không được làm…
(10) Như Quy chế phối hợp công tác giữa các đảng đoàn, ban cán sự đảng, các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương và với lãnh đạo ngành, địa phương, đơn vị trong các lĩnh vực công tác; Quy định ‘Về nhiệm vụ và quan hệ công tác của thường trực tỉnh ủy, thành ủy’; Quy chế phối hợp giữa ban tuyên giáo các cấp với cơ quan quản lý nhà nước trong việc triển khai kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, giải quyết các vấn đề bức xúc của nhân dân; các quy định, quy chế về trách nhiệm, quan hệ phối hợp giữa các cơ quan chỉ đạo, quản lý, cơ quan chủ quản và cơ quan báo chí, xuất bản đối với hoạt động báo chí, xuất bản; Quy chế phối hợp giữa Ủy ban Kiểm tra Trung ương với một số cấp ủy và cơ quan, tổ chức đảng ở Trung ương; Quy chế quan hệ phối hợp công tác giữa Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh với các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương v.v…
(11) Như Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về phát triển kinh tế tư nhân, phát triển kinh tế tập thể, các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020; Nghị quyết của Bộ Chính trị (khóa IX) về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng, thành phố Cần Thơ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; các chỉ thị của Bộ Chính trị (khóa VIII) về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, về tăng cường công tác kiểm tra của Ðảng; các chỉ thị của Ban Bí thư (khóa VII) về nhiệm vụ và tổ chức của Liên hiệp các tổ chức hòa bình, đoàn kết và hữu nghị Việt Nam, của Ban Bí thư (khóa IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên, về công tác xuất bản…
(12) Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, về công tác dân tộc, công tác tôn giáo; Chỉ thị số 68-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về công tác đối với vùng đồng bào dân tộc Khơ me và Chỉ thị số 45-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về công tác đối với vùng đồng bào dân tộc Mông; Chỉ thị số 12-CT/TW của Ban Bí thư (khóa VII) về vấn đề quyền con người; Chỉ thị số 45-CT/TW của Ban Bí thư (khóa VII) về hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam…
(13) Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Ðoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Người cao tuổi, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Ðại hội các hội văn học, nghệ thuật, Ðại hội Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Ðại hội đại biểu luật sư toàn quốc lần thứ nhất, Ðại hội Hội Luật gia Việt Nam…
Theo Báo Nhân Dân